Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

291- RAU MÁC

291- RAU MÁC




RAU MÁC
Cây thân thảo, lá hình mũi mác
Hoa trắng to, tập họp thành chùm
Củ là thuốc bổ, đau tim
Trĩ, lậu, sản hậu...còn tìm loại chi?
BXP
Sưu tập
Rau máctên khoa họcSagittaria sarittaefolia L., chi Sagittaria Từ côHọ Alismataceae - trạch tả (mã đề nước), Bộ Alismatales Trạch tả.
Cây thảo sống nhiều năm, có thân nằm dưới đất, ở đầu phình thành củ. Lá hình mũi mác, có 3 thuỳ nhọn, cuống lá dài. Cán hoa mọc đứng, trần dài 20-90cm, mang hoa từ nửa trên. Hoa trắng, khá to, tập hợp thành chùm đứt đoạn, xếp đối nhau hoặc thành 3 cái một. Quả bế dẹp.
Loài cây của các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Ở Việt Nam, rau mác mọc ở đầm lầy, ruộng lầy, ao đầm và những nơi có bùn. Thu hái toàn cây vào mùa hè, rửa sạch phơi khô
Vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có ít độc; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, trừ thấp, giảm đau.
Lá non và cuống lá thường được làm rau luộc, xào hay nấu canh ăn. Củ rau mác thu hoạch vào mùa đông, dùng để nấu hay luộc ăn. Củ dùng làm thuốc bổ dưỡng, cường tráng và cũng dùng làm thuốc cầm máu. Chuyên dùng chữa sản hậu chóng mặt, đau nhói trong tim, cũng dùng chữa bệnh lậu có sỏi, chữa ho, ho ra máu nhưng uống nhiều thì có độc. Hoa làm sáng mắt, trừ chứng thấp, đinh độc, trĩ, lậu. Lá dùng chữa thũng độc lâu ngày, trẻ em nổi đơn độc, mụt lở và hôi nách (giã nát đắp vào).Ở Trung Quốc người ta còn dùng trị sản dịch, an thai và bệnh ngoài da, rắn cắn ong đốt, các loại mụn nhọt ở ngứa, cảm nắng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét