Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

B.968- ĐẠI BÀNG RỪNG CHÂU PHI






Sưu tập :

Đại bàng rừng châu Phi - Stephanoaetus coronatus, chi Stephanoaetus, Phân họ Aquilinae, họ Ưng Accipitridae, 14- Bộ Ưng Accipitriformes

Đại bàng rừng châu Phi - Stephanoaetus coronatus, là một loài chim săn mồi lớn trong họ Accipitridae, sống ở vùng hạ Sahara châu Phi. Môi trường sống ưa thích của nó là trong rừng và các khu vực cây cối ven sông. Nó là thành viên còn tồn tại duy nhất của chi Stephanoaetus. Loài thứ hai, đại bàng rừng Madagaxca (Stephanoaetus mahery), đã tuyệt chủng sau khi con người định cư trên đảo Madagascar. Do tương đồng sinh thái, đại bàng rừng châu Phi có đặc tính sinh học tương đối giống với đại bàng Harpy (Harpia harpyja) ở rừng rậm Nam Mỹ.
Đại bàng rừng châu Phi có tổng chiều dài lên đến 90 cm, hơi nhỏ hơn và có sải cánh ngắn hơn đáng kể so với loài đại bàng lớn nhất của châu Phi, đại bàng martial (Polemaetus bellicosus). Tuy nhiên, chúng được coi là đại bàng mạnh nhất châu Phi khi tính theo trọng lượng con mồi. Nó có thể săn các con mồi động vật có vú như Linh dương bụi rậm (Tragelaphus scriptus), cá biệt có thể nặng hơn 30 kg.
Đại bàng rừng châu Phi rất hung dữ. Chúng sở hữu móng vuốt rất lớn và những cái chân mạnh mẽ, và có thể giết chết con mồi bằng cách bóp vỡ hộp sọ. Trên 90 phần trăm chế độ ăn uống của đại bàng rừng châu Phi là động vật có vú, chủ yếu là động vật móng guốc nhỏ (như linh dương hoẵng, cheo châu Phi), chuột lang hyrax và động vật linh trưởng nhỏ như khỉ. Con mồi là chim và thằn lằn lớn hầu như không đáng kể
Với chiều dài 80–99 cm, đại bàng rừng châu Phi là đại bàng dài thứ 5 còn tồn tại trên thế giới. Con mái có trọng lượng 3,2-4,7 kg, lớn hơn khoảng 10-15% so với con trống, có trọng lượng 2,55-4,12 kg. Cân nặng trung bình được công bố là 3,64 kg hoặc 3,8 kg. Chúng là loài đại bàng nặng thứ 9 hiện đang còn tồn tại trên thế giới. Sải cánh thông thường vào khoảng 1,51-1,81 m, với sải cánh thực lớn nhất của con mái là 1,9 m, tuy nhiên có tuyên bố rằng sải cánh của chúng lên tới 2 m. Sải cánh của loài đại bàng này là khá ngắn so với kích thước của chúng, tương đương với đại bàng nâu (Aquila rapax) hoặc đại bàng bắt rắn ngón chân ngắn (Circaetus gallicus), có trọng lượng bằng khoảng một nửa của chúng. Tuy nhiên, cánh của chúng hơi tròn và khá rộng, ví dụ rộng hơn nhiều so với đại bàng vàng (Aquila chrysaetos). Cấu trúc cánh như vậy giúp cho chúng có khả năng cơ động trong môi trường rừng rậm rạp. Tuy chúng nhẹ hơn và có sải cánh ngắn hơn so với đại bàng martial sống cùng khu vực hạ Sahara, nhưng chúng có tổng chiều dài lớn hơn nhờ đuôi dài hơn, khoảng 30–41 cm, trung bình là 31,5 cm ở con trống và 34,8 cm với con mái. Cỡ mỏ là trung bình so với kích thước cơ thể của nó, với một mẫu vật lớn có chiều dài 5.5 cm từ hốc miệng, 4,5 cm theo sống mũi và 3,3 cm chiều dày mỏ.
Xương cổ chân có chiều dài khiêm tốn so với kích thước một loài chim ăn thịt như nó, khoảng 8,5-10,3 cm, và ngắn hơn so với đại bàng martial. Tuy nhiên, bàn chân và ngón chân là dày hơn và nặng hơn so với đại bàng martial và móng vuốt có vẻ là khá lớn theo cả chiều dài và chiều rộng. Một mẫu vật có chiều dài móng vuốt sau (vuốt lớn nhất của họ này) của chúng là 6,2 cm, ngang với kích thước của đại bàng vàng lớn nhất, trong khi móng vuốt sau dài nhất của một số cá thể nuôi nhốt được tin rằng lên đến 10 cm. Một mẫu vật đại bàng rừng châu Phi có các vuốt phía trước bên trái là 4,74 cm, ngắn hơn khoảng 1 cm so với đại bàng Harpy và hơi nhỏ hơn so với đại bàng Philippines (Pithecophaga jefferyi), tuy rằng con mái của các loài đại bàng này có thể nặng tới gấp đôi so với khối lượng trung bình của đại bàng rừng châu Phi.


Nguồn + Hình: wikipedia &  Internet

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét