Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

2221- MÍA


(Sưu tập lại Bộ Hòa thảo)

Nước mía pha gừng có công dụng trị ốm nghén hiệu quả.
MÍA

Ngọn cây hoa trổ bông cờ
Mía em thân đặc, lá xoà múa gươm
Khi đem ép mật chế đường
Có nhiều công dụng, người thường quý yêu

BXP

Sưu tập lại Bài 358 STH

Mía - Saccharum officinarum, Chi Saccharum, Họ Cỏ, lúa - Poaceae, 18-bộ Poales Hòa thảo, bộ Cỏ hoặc bộ Lúa (nhánh 4)

Mô tả: Cây thảo cao, sống dai nhờ thân rễ. Thân đặc cao từ 2 đến 5 m. Lá phủ một lớp sáp. Lá to, bẹ có nhiều lông dễ rụng, đốt dài 5-10cm, rộng 3-6cm, phiến rộng đến 6cm, màu lục, màu vàng hay đỏ tím, có một gân giữa trắng. Cụm hoa là chuỳ (cờ) rộng và to ở ngọn cây, mang hoa dầy đặc, bông nhỏ có một hoa sinh sản.
Nơi mọc: Loài của Mêlanêdi, được trồng rộng rãi ở Ấn Ðộ, các nước Ðông Nam Á và Mỹ châu. Ở nước ta, mía cũng được trồng nhiều ở các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi và các tỉnh miền Bắc như Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú. Mía ưa đất phù sa, sau 11-18 tháng đã có thu hoạch cây để ép mật chế đường và làm thuốc. Rễ có thể thu hái quanh năm.
Công dụng: Vị ngọt mát, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, giải độc, tiêu đờm, chống nôn mửa, chữa sốt, tiểu tiện nước tiểu đỏ và rất bổ dưỡng. Đặc biệt khi chăm sóc "bà bầu" bị nôn khan khi ốm nghén bằng nước mía pha gừng rất hiệu quả.
Ở Ấn Ðộ, người ta cho là mía có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, giải nhiệt, kích dục. Rễ mía có tác dụng làm nhầy, giải nhiệt và lợi tiểu. Ðường cát có vị ngọt, tính mát, có tác dụng nhuận tâm phế, bổ tỳ, điều hoà can khí, giải nhiệt độc, say rượu, say sắn.

Mía được dùng ép lấy nước uống chữa sốt, khát nước, tiểu tiện đỏ, còn dùng chữa nôn oẹ. Ðường cát còn dùng chữa bệnh lỵ, ăn uống không vào, chữa ho lâu khỏi và chữa trẻ em ho.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét