Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

1.830- ĐINH LĂNG






















ĐINH LĂNG

Hoa nhỏ, màu trắng xám
Phiến lá xẻ lông chim
Rễ: thuốc bổ như Sâm
Trị suy nhược cơ thể.

BXP

Sưu tập

Đinh lăng, Cây gỏi cá - Polyscias fruticosa, Chi Polyscias, Họ Cam tùng, Nhân sâm, Ngũ gia bì - Araliaceae, bộ Hoa tán Apiales

Mô tả: Cây nhỏ dạng bụi, cao 1,5-2m. Thân nhẵn, ít phân nhánh, các nhánh non có nhiều lỗ bì lồi. Lá kép mọc so le, có bẹ, phiến lá xẻ 3 lần lông chim, mép có răng cưa không đều, chóp nhọn, lá chét và các đoạn đều có cuống. Cụm hoa chuỳ ở ngọn, gồm nhiều tán. Hoa nhỏ, màu trắng xám. Quả hình trứng, dẹt, màu trắng bạc.
Cây ra hoa tháng 4-7.
Nơi mọc: Cây có nguồn gốc từ các đảo Thái bình dương (Polynêdi) được trồng chủ yếu để làm cảnh ở các đình chùa, các vườn gia đình. Từ năm 1961, do biết tác dụng bổ dưỡng của rễ Đinh lăng, người ta trồng nhiều ở các bệnh viện, trạm xá, vườn thuốc. Cây có khả năng tái sinh dinh dưỡng cao. Thu hoạch rễ của những cây đã trồng từ 3 năm trở lên (cây trồng càng lâu năm càng tốt). Lá thu hái quanh năm, thường dùng tươi.

Công dụng: Đinh lăng dùng làm thuốc bổ, trị suy nhược cơ thể, tiêu hoá kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, sản hậu huyết xông nhức mỏi. Còn dùng làm thuốc chữa ho, ho ra máu, thông tiểu tiện, chữa kiết lỵ. Thân và cành dùng chữa phong thấp, đau lưng. Lá dùng chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét