Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

SƯU TẦM CON VẬT LẠ 149


12- Pyura chilensis

Pyura chilensis là loài động vật biển có vỏ được tìm ra bởi Juan Ignacio Molina vào năm 1782. Chúng thuộc lớp Ascidiacea - loài sinh vật không xương sống và không di chuyển được.
P.chilensis khoác lên mình một lớp vỏ dày cấu tạo bởi xenlulo - một kết cấu ma trận phân tử vững chắc giúp cho chúng có thể gắn nội tạng của mình vào bề mặt bên trong.
Nhưng không chỉ có lớp vỏ thô cứng, phần bên trong của lớp áo giáp này còn được đệm lót bằng một lớp biểu bì và những múi cơ. Phần chính của P.chilensis nằm ở phía trong cùng.

P.chilensis thường được tìm thấy ở các bãi đất nhô lên khi thuỷ triều xuống tại ChilePeru. Cơ thể chúng có 2 ống xi-phông kết nối với môi trường biển bên ngoài, một để hít vào và một để thở ra.
Chúng hấp thụ thức ăn bằng cách hít nước vào, lọc ra các vi tảo có thể ăn được thông qua lối họng có chứa chất nhày, sau đó thở lại nước ra biển bằng ống xi-phông còn lại.
P. chilensis sinh ra đã là con đực sau đó ở tuổi dậy thì sẽ trở thành lưỡng tính và sinh sản bằng cách ném những “đám mây tinh trùng và trứng” thả trôi vào vùng nước xung quanh.

Nếu sự va chạm giữa trứng và tinh trùng thành công, nòng nọc sẽ xuất hiện và cuối cùng “định cư” vào trong một tảng đá nào đó để phát triển thành con trưởng thành.

Máu của P.chilensis rất tinh khiết nhưng chứa nồng độ rất cao nguyên tố hóa học bí ẩn và hiếm có tên gọi là vanadi. Nồng độ này có thể gấp 10 triệu lần so với mức được tìm thấy trong nước biển.
Tuy nhiên, câu hỏi tại sao và làm thế nào loài động vật này có thể tích luỹ một khối lượng lớn vanadi đến thế vẫn chưa có nhà khoa học nào giải thích được.
Trên các bãi biển của Chile, P. chilensis bị đánh bắt rất nhiều và trở thành một loại thức ăn chủ yếu. Ngư dân thường dùng cưa tay cắt P.chilensis thành các lát mỏng, sau đó dùng ngón tay tách lấy phần thịt ra khỏi vỏ. Thịt của chúng có thể bán tươi sống hoặc đóng hộp để xuất khẩu.
13- Sao biển

Loài sao biển có hệ thống chi rất phức tạp. Chúng dùng các chi để di chuyển và bắt mồi.
14- Sứa lược

Con sứa lược săn mồi ở một nơi hoàn toàn không có ánh sáng.

15- Sứa mũ hoa


Loài sinh vật này ăn những con cá nhỏ và thỉnh thoảng còn chén thịt lẫn nhau. Chúng có thể phình to hoặc teo nhỏ kích cỡ cơ thể phụ thuộc vào nguồn thức ăn sẵn có.

16- Sứa ống Marrus orthocanna


Loài sinh vật thường được gọi nôm na là sứa ống này, thực chất là một động vật sống theo quần thể, là tập hợp của nhiều cá thể có tên gọi là zooid, kết nối với nhau ở một thân chung.

17-  Sứa velella

Sứa velella (tên khoa học là Velella Velella) là một chi của thủy tức, sống trôi nổi trên bề mặt đại dương. Chúng còn có tên khác như “chiếc bè trên biển”, “cánh buồm nhỏ”...

Một velella trưởng thành có độ dài không quá 7cm, cơ thể thường có màu xanh đậm, trong suốt giống như chiếc giấy bóng kính với cánh buồm cứng nhỏ ở phía trên giúp nó đón gió và di chuyển trên mặt biển.
Sứa velella
Sứa Velella là loài vật ăn thịt. Chúng săn sinh vật phù du bằng những xúc tu chứa chất độc. Mặc dù những chất độc này có thể làm hại đến con mồi nhưng hầu như không ảnh hưởng đến con người bởi chúng không thể đi qua da.

Velella sinh sống tại vùng nước ấm và ôn đới ở tất cả các đại dương trên toàn thế giới. Nó không bao giờ chạm hoặc thậm chí là đến gần đáy đại dương, giai đoạn duy nhất Velella chìm hẳn xuống nước là giai đoạn ấu trùng mà thôi.
18- Một loài sứa khác

Phần lớn những loài sứa mà con người đã biết thường bơi ở tầng nước giữa của đại dương, nhưng con sứa trong ảnh lại trôi nổi cách đáy vài cm. Những xúc tu của nó chạm đáy và đây là hiện tượng bất thường.

19- Giun cây thông giáng sinh (Christmas tree worm)

Loài giun này có tên khoa học là Spirobranchus giganteus, phân bố rộng rãi khắp các đại dương nhiệt đới trên thế giới, từ vùng biển Caribbean cho đến Ấn Độ - Thái Bình Dương. Chúng thường được tìm thấy khi "cắm đầu" vào các rạn san hô lớn dưới đáy biển.

Đúng như cái tên, điểm đặc biệt dễ nhận thấy nhất của loài giun này đó là hai “chiếc vương miện” giống như 2 cây thông Giáng sinh. Những cây thông này có nhiệm vụ vận chuyển bất cứ sinh vật nào mắc kẹt trong đó vào... miệng con giun.
Ngoài ra, đây còn là cơ quan hô hấp của chúng, làm việc giống như “mang”. Giống như các loài giun khác, Spirobranchus giganteus có cơ thể hình ống, viền xung quanh bao phủ nhiều lông và các chi rất nhỏ giúp chúng có thể di chuyển được trên rạn san hô.
Giun cây thông giáng sinh

Tuy nhiên, con giun này rất ít vận động, có nghĩa là một khi đã tìm được địa điểm ưa thích, nó sẽ không di chuyển nhiều nữa. Khi bị giật mình, những cây thông giáng sinh này cũng có thể nhanh chóng rút vào hốc của các rạn san hô để lẩn tránh mối nguy hiểm.

20- Giun Bobbit


Giun Bobbit có thể phát triển tới chiều dài 3 mét và tấn công với lực mạnh tới mức có thể xẻ đôi cơ thể một con cá ngay lập tức. 

21- Giun mực



10 phần phụ giống những xúc tu trên đầu của giun mực dài hơn toàn bộ thân chính của nó và được sử dụng để thu lượm thức ăn trong nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét