Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017

B.56- MUỖM XANH

Họ Muỗm hay Vạc sành, Muồm muỗm - Tettigoniidae chứa trên 6.800 loài muỗm. Nó là một phần của phân bộ Ensifera (các loài có bộ phận sinh sản tựa như thanh kiếm), và là họ duy nhất trong siêu họ Tettigonoidea. Trong một số ngôn ngữ, chẳng hạn như tiếng Anh, người ta còn gọi nó là long-horned grasshopper nghĩa là châu chấu râu dài, hay bush-cricket nghĩa là dế bụi rậm. Xét về phân ngành thì muỗm là loài cận chủng với loài dế hơn là so với châu chấu.
Tại Bắc Mỹ, chúng có tên là katydid, một danh từ hài thanh nhại theo tiếng gáy của loài muỗm thuộc chi Pterophylla (nghĩa là "lá có cánh") sinh sống ở Bắc Mỹ. Muỗm đực có các cơ quan tạo âm nằm ở góc sau của cặp cánh trước. Khi gáy thì có tiếng như âm thanh "Katy did, Katy didn't", vì thế mà có tên gọi đó. Ở một số loài thì muỗm cái cũng có khả năng gáy.
Có thể phân biệt muỗm với châu chấu và cào cào dễ dàng căn cứ trên chiều dài của râu; râu muỗm thì dài, có thể dài hơn cả thân, trong khi các loài châu chấu thì râu tương đối ngắn.
Có khoảng 255 loài sinh sống ở Bắc Mỹ, nhưng phần lớn chúng sinh sống ở vùng nhiệt đới.
Thức ăn của muỗm là các loại lá, hoa, vỏ cây và hạt, nhưng một số loài là những động vật ăn thịt, chúng chỉ ăn sâu bọ, ốc sên hoặc thậm chí là cả các động vật có xương sống nhỏ, như rắn hay thằn lằn. Một số loài bị coi là động vật dịch hại, chuyên phá hoại mùa màng của một số loài cây trồng và người ta cần phun thuốc trừ sâu để hạn chế sự phát triển của chúng.

B.56- MUỖM XANH
Sưu tập :

Muỗm xanh - Tettigonia viridissima

Muỗm xanh - Tettigonia viridissima là một loài muỗm trong họ Muỗm hay Vạc sành Muồm muỗm - Tettigoniidae

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.55- DẾ WETA ĐẤT


Sưu tập :

Dế weta đất -Hemiandrus pallitarsis

Dế weta đất - Hemiandrus pallitarsis là một loài dế có nguồn gốc từ đảo Bắc, New Zealand. Đây là một nguồn thực phẩm quan trọng đối với kiwi.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.54- DẾ HIỆP SĨ KHỔNG LỒ NGHÈO

Họ Dế vua - Anostostomatidaelà một họ trong bộ Orthoptera. Đôi khi nó được gọi là Mimnermidae hoặc Henicidae trong một số đơn vị phân loại, và tên gọi thông thường bao gồm dế vua ở Nam Phi, và weta ở New Zealand. Chúng được cho là có liên quan chặt chẽ nhất với dế Jerusalem của Bắc Mỹ.

B.54- DẾ HIỆP SĨ KHỔNG LỒ NGHÈO
Sưu tập :

Dế hiệp sĩ khổng lồ nghèo - Deinacrida fallai


Dế hiệp sĩ khổng lồ nghèo - Deinacrida fallai là một loài côn trùng thuộc họ Stenopelmatidae. Đây là loài đặc hữu của New Zealand.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.53- DẾ TRŨI UNISPINA


Sưu tập :

Dế trũi Unispina - Gryllotalpa unispina

Dế trũi Unispina - Gryllotalpa unispina là một loài côn trùng trong họ Gryllotalpidae. Loài này được Saussure miêu tả khoa học đầu tiên năm 1874.
Đây là loài gây hại phát triển phổ biến ở Uzbekistan.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.52- DẾ TRŨI PHƯƠNG BẮC



















Sưu tập :

Dế trũi phương bắc - Neocurtilla hexadactyla

Dế trũi phương bắc - Neocurtilla hexadactyla, là một loài dế trũi có nguồn gốc ở miền đông Bắc Mỹ. phạm vi của nó kéo dài từ đạt phía nam của miền đông Canada và qua phía đông và miền trung Hoa Kỳ.

Nguồn : Wikipedia & Internet

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

B.51- DẾ TRŨI ĐỒNG CỎ


Sưu tập :

Dế trũi đồng cỏ - Gryllotalpa major

Dế trũi đồng cỏ - Gryllotalpa major là một loài dế trũi trong họ Gryllotalpidae có tên là dế trũi thảo nguyên. Đây là loài đặc hữu của Hoa Kỳ và là loài dế lớn nhất Bắc Mỹ. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là những vùng thảo nguyên ôn hòa. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống và hiện tại chỉ hiện diện ở vùng 4 góc Oklahoma, Kansas, Missouri và Arkansas.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.50- DẾ TRŨI CHÂU ÂU


Sưu tập :

Dế trũi châu Âu - Gryllotalpa gryllotalpa

Dế trũi châu Âu - Gryllotalpa gryllotalpa là một loài dế trũi phân bố rộng rãi ở châu Âu và được du nhập vào đông Hoa Kỳ. Tên gọi lấy từ tiếng Latinh 'gryllus' có nghĩa là dế và 'talpa' có nghĩa là chuột chũi, nó sinh sống dưới lòng đất và có lông rậm mịn, and because of the mole-like forelegs adapted for digging, a good example of convergent evolution. Thân dế trũi châu Âu dài khoảng 40 mm đối với con đực và 45 mm đối với con cái. Nó có màu nâu đậm.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.49- DẾ TRŨI AUSTRALIA

Họ Dế trũi - Gryllotalpidae
Dế trũi (hay là dế nhũi, dế dũi) - Gryllotalpidae, là một họ côn trùng thân dày, dài khoảng 3–5 mm với mắt tròn với hai chân trước như hai chiếc xẻng phát triển thuận lợi cho việc đào hang và bơi. Dễ trũi cũng có thể bay - một con trưởng thành có thể bay xa 8 km trong mùa sinh sản. Mùa đông thì chúng đi ngủ đông. Dễ trũi là loài ăn tạp, chúng ăn cả ấu trùng, giun, rể cây, cỏ. Các loại kẻ thù ăn thịt dế trũi có chim, chuột, chồn hôi, tatu, gấu trúc Mỹ, cáo và loài người.
Dễ trũi kiếm ăn ban đêm và phần lớn thời gian chúng ở dưới đất trong một hệ thống hang dày đặc nên ít khi bắt gặp chúng. Chúng sống ở những khu vực đồng ruộng, bãi cỏ ở khắp các châu lục ngoại trừ châu Nam Cực. Ở một số nước Đông Á, người ta đôi khi sử dụng dế trũi làm thực phẩm.
B.49- DẾ TRŨI AUSTRALIA
Sưu tập :

Dế trũi Australia - Gryllotalpa brachyptera

Dế trũi Australia - Gryllotalpa brachyptera là một loài dế trũi, bản địa Úc (New South Wales và Sydne

Nguồn : Wikipedia & Internet

Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

B.48- DẾ MÈN

Họ Dế mèn - Gryllidae là một họ côn trùng có quan hệ gần với Phân bộ Châu chấu (Caelifera). Các thành viên họ này nói chung có cơ thể hình trụ, đầu tròn, và một cặp râu dài. Cuối phần bụng có một cặp cerci (một loại phần phụ), con mái còn có một ovipositor (cơ quan dùng để đẻ trứng) dài. Chân sau thích hợp cho việc nhảy. Cặp cánh trước được chuyên biệt hóa thành một dạng cánh bảo vệ, cặp cánh sau có dạng màng, và được gập lại khi không sử dụng. Tuy nhiên, vài loài không có cánh. Các thành viên lớn nhất thuộc chi Brachytrupes, đặt chiều dài 5 cm (2 in).
Có hơn 900 loài thuộc họ Dế mèn; chúng phần bố toàn cầu tại nơi có vĩ độ từ 55°Bắc đến 55°Nam, với độ đa dạng cao nhất là ở các miền nhiệt đới. Chúng xuất hiện tại nhiều môi trường, từ đồng cỏ, bụi rậm, và rừng tới đầm lầy, bãi biển và hang động. Các loài dế mèn đa số sống về đêm, và con trống có tiếng gáy to dai dẳng để thu hút con mái, dù vài loài không gáy được. Trong văn hóa, dế mèn được phản ánh qua câu chuyện Dế mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài.
(sưu tập một loài điển hình)
B.48- DẾ MÈN





Sưu tập :

Dế mèn - Gryllus campestris

Dế mèn - Gryllus campestris là một loài côn trùng có màu tối và không biết bay tương đối lớn; con đực dài khoảng 19–23 mm và con cái 17–22 mm.
Nơi sinh sống
Gryllus campestris đã từng rất phổ biến trên hầu hết các nước Tây Âu. Loài này ưa thích các địa điểm khô có nắng với thảm thực vật ngắn, giống như đồng cỏ khô. Ở rìa phía bắc của phạm vi phân bố, loài này giới hạn trong heathland và đồng cỏ nghèo dinh dưỡng. Đây là loài không biết bay và không thể di chuyển một quãng đường dài, và do đó nó không thường hồi phục ở những nơi chúng bị tuyệt chủng cục bộ.
Sinh sản
Mùa sinh sản một lứa kéo dài từ tháng năm đến tháng bảy. Con đực đào cái hang với một nền ở lối vào từ đó thu hút con cái với tiếng kêu tán tỉnh của mình. Chúng kêu vào ban ngày cũng như phần đầu của đêm, chỉ khi nhiệt độ cao hơn 13 °C. Ấu trùng nở vào tháng sáu đến giữa tháng Bảy và ngủ đông dưới dạng nhộng thứ 10 hoặc thứ 11 của chúng. Ấu trùng lột xác vào cuối tháng hoặc đầu tháng. Con đực có tính giữ lãnh thổ và bảo vệ hang một cách quyết liệt, trong khi con cái đi đang lang thang và bị tiếng kêu của con đực thu hút. Chúng đẻ trứng trong đất trống hoặc gần hang hoặc bên trong hang.
Các mối đe dọa
Gryllus campestris là loài dế nguy cấp nhất tại Anh. Loài này đang suy giảm và được liệt kê vào danh sách đỏ trong phần lớn của miền Trung và Bắc Âu, như Anh, Đức, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Đan Mạch và Lithuania. Loài này đã giảm nghiêm trọng trong một phần của phạm vi phía bắc của nó do sự biến mất của môi trường sống heathland của nó; vào đầu những năm 1990, loài đã bị suy giảm ở Anh còn lại một quần thể còn sống sót duy nhất của chỉ 100 cá thể trong Coates, West Sussex.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.47- (8) Bộ Orthoptera (Cánh thẳng: Châu chấu, cào cào, muỗm, dế)


Bộ Cánh thẳng - Orthoptera là một bộ côn trùng với biến thái không hoàn toàn, bao gồm các loài châu chấu, cào cào, dế và muỗm. Nhiều loài côn trùng trong bộ này phát ra các âm thanh dưới dạng các tiếng kêu inh ỏi bằng cách cọ xát cánh vào nhau hay vào chân. Các tai của chúng, nằm ở các chân trước, được kết nối sao cho chúng có thể định vị nhau bằng âm thanh.
Các loài côn trùng cánh thẳng có hai cặp cánh; các cánh trước hẹp hơn các cánh sau và cứng ở phần gốc cánh. Các cánh trước gối lên nhau ở phần lưng bụng khi côn trùng cánh thẳng nghỉ ngơi. Các cánh sau giống như màng mỏng và gập nếp như các lá quạt phía dưới các cánh trước khi nghỉ. Chúng có phần miệng với quai hàm, các mắt kép (phức) lớn, độ dài các râu thay đổi tùy theo loài. Các chân sau to, phù hợp với việc bật nhảy.
Chu kỳ sống
Các côn trùng cánh thẳng phát triển nhờ biến thái không hoàn toàn. Phần lớn các loài đẻ trứng trong đất hay trên cây. Trứng nở ra thành con non trông tương tự như con trưởng thành nhưng thiếu cánh. Thông qua các lần lột xác kế tiếp nhau thì con non sẽ phát triển lên để trở thành con trưởng thành với đầy đủ cánh. Côn trùng cánh thẳng có khả năng gập được cánh của chúng, một khả năng mà các nhà côn trùng học gọi là côn trùng cánh mới (Neoptera).
Số lượng lần lột xác phụ thuộc vào từng loài; sự phát triển cũng rất biến thiên và có thể là từ vài tuần tới vài tháng, phụ thuộc vào khả năng cung cấp của các nguồn cấp thức ăn cùng các điều kiện thời tiết.
Thực phẩm
Một vài loài côn trùng trong bộ này là các côn trùng duy nhất được coi là kashrut (thức ăn được phép) của đạo Do Thái. Mặc dù Kinh Thánh có thể được hiểu như là thông báo rằng mọi loài Orthoptera là kashrut, ngoại trừ những loài không nhảy như dế trũi, nhưng các tác giả của luật Halakha lại cho rằng chỉ có 4 loài đã biết tại Yemen mới được coi là kashrut.
Nguồn : Wikipedia &  Internet

B.46- (7) Bộ Plecoptera (Cánh úp)


Bộ Cánh úp - Plecoptera, là một bộ côn trùng, thường được gọi là ruồi đá. Có 3.500 loài trên toàn thế giới đã được mô tả, với các loài mới vẫn đang được khám phá. Ruồi đá được tìm thấy trên toàn thế giới, ngoại trừ Nam Cực. Ruồi đá được cho là một trong những nhóm Neoptera nguyên thủy nhất, với đồng minh được xác định từ kỷ Cacbon và Hạ Permi, trong khi ruồi đá thực sự được biết đến từ các hóa thạch chỉ là một chút nhỏ. Sự đa dạng hiện đại tuy nhiên rõ ràng là nguồn gốc đại Trung sinh.
Plecoptera được tìm thấy ở cả hai miền Nam và Bắc bán cầu, và dân số là khá khác biệt mặc dù bằng chứng tiến hóa cho thấy loài này có thể đã vượt qua đường xích đạo một số lần trước khi một lần nữa bị cô lập về mặt địa lý.
Tất cả các loài Plecoptera không xuất hiện nguồn nước ô nhiễm và sự hiện diện của chúng trong một dòng suối hoặc nước tĩnh lặng thường là một chỉ số về chất lượng nước tốt hoặc rất tốt

Eusthenia venosa Eusthenia sp
Eusthenia sp
Eusthenia nothofagi
Eusthenia sp

Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2017

B.45- (6) Bộ Dermaptera (Cánh da)



Bộ Cánh da, còn gọi là bộ Sâu tai (earwig), tên khoa học Dermaptera, bao gồm các loài côn trùng được tìm thấy khắp châu Mỹ, châu Phi, Á-Âu, Úc và New Zealand. Bộ này có khoảng 2.000 loài được xếp vào 12 họ
loài Forficula auricularia