Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2018

B.45- (6) Bộ Dermaptera (Cánh da)

B.45- (6) Bộ Dermaptera (Cánh da)

Bộ Cánh da, còn gọi là bộ Sâu tai (earwig), tên khoa học Dermaptera, bao gồm các loài côn trùng được tìm thấy khắp châu Mỹ, châu Phi, Á-Âu, Úc và New Zealand. Bộ này có khoảng 2.000 loài được xếp vào 12 họ
loài Forficula auricularia

B.44- BỌ NGỰA CAROLINA

B.44- BỌ NGỰA CAROLINA














Sưu tập :

B.44- Bọ ngựa Carolina - Stagmomantis carolina

Bọ ngựa Carolina - Stagmomantis carolina là một loài bọ ngựa thuộc Họ Bọ ngựa. Đây là loài bản địa Nam Hoa Kỳ và là một trong sáu loài tìm thấy ở Bắc Mỹ. Nó dài khoảng 2,5 in (64 mm).

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.43- BỌ NGỰA NÂU LỚN

B.43- BỌ NGỰA NÂU LỚN
Archimantis latistyla bên dưới hoa của carrot
Sưu tập :

B.43- Bọ ngựa nâu lớn - Archimantis latistyla

Bọ ngựa nâu lớn - Archimantis latistyla là một loài bọ ngựa thuộc Họ Bọ ngựa. Đây là loài bản địa Úc. Loài này có vài phân loài. Con cái được gọi là "cánh ngắn" do cánh chỉ dài nửa bụng

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.42- BỌ NGỰA PHONG LAN

B.42- BỌ NGỰA PHONG LAN
Sưu tập :

B.42- Bọ ngựa phong lan - Hymenopus coronatus

Bọ ngựa phong lan - Hymenopus coronatus là loài bọ ngựa sống trong các khu rừng mưa của khu vực Đông Nam Á. Đây là một trong một số loài được biết đến như bọ ngựa hoa có vẻ bề ngoài và cả hành vi của chúng giống hệt như cánh hoa phong lan. Vì vậy, chúng được coi là một trong số những loài ngụy trang giỏi nhất trong thế giới các loài động vật.
Loài này được đặc trưng bởi màu sắc rực rỡ và một cấu trúc mịn điều chỉnh ngụy trang, bắt chước các bộ phận của hoa phong lan. Bốn chân của chúng cũng giống hệt như những cánh hoa lan, trong khi các cặp chi trước có răng cưa giống như các loài bọ ngựa khác được sử dụng trong việc nắm bắt con mồi.
Bọ ngựa phong lan cho thấy một số dị hình lưỡng tính rõ rệt so với bất kỳ loài bọ ngựa nào khác, con đực có kích thước chỉ bằng một nửa so với con cái. Bọ ngựa phong lan được ưa chuộng bởi các nhà lai tạo côn trùng, nhưng chúng rất hiếm và đắt tiền. Chúng chỉ cần một khoảng không gian nhỏ, kiếm thức ăn là các côn trùng bay qua bằng cách ngồi và chờ đợi. Chúng có thể thay đổi được 90 màu sắc, giữa sắc hồng và nâu, tùy theo màu sắc của hoa lan.[4]. Con đực được cho là trưởng nhanh hơn so với con cái, trừ khi nhiệt độ hạ xuống 15-18 độ C. Con cái phát triển nhanh nhất ở nhiệt độ và độ ẩm cao từ 30 đến 55 C.
Ấu trùng giai đoạn đầu tiên giống với họ Reduviidae.
Chúng là loài ăn thịt, chủ yếu là các loài côn trùng khác. Trong phòng thí nghiệm, nó thích ăn các loài bướm.
Loài này được tìm thấy trong các khu rừng mưa ở Đông Nam Á, bao gồm chủ yếu ở Malaisia và Indonesia. Chúng cũng được phát hiện là có mặt tại Việt Nam

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.41- BỌ NGỰA CÁNH XANH TRUNG BỘ

B.41- BỌ NGỰA CÁNH XANH TRUNG BỘ
Sưu tập :

B.41- Bọ ngựa cánh xanh Trung Bộ - Creobroter apicalis

Mô tả:
SVRVN đang mô tả loài này ..

Nguồn : SVRVN & Internet

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2018

B.40- BỌ NGỰA CÁNH XANH BẮC BỘ

B.40- BỌ NGỰA CÁNH XANH BẮC BỘ
B.40- Bọ ngựa cánh xanh Bắc Bộ - Creobroter gemmatus

Đặc điểm nhận dạng:
Loài đầu dài có kích thước trung bình. sải cánh dài 62 - 86mm. Đầu (gồm cả phần ek1o dài) có màu đen với những đốm màu trắng không đồng nhất. Đỉnh đầu của phần kéo dài có chóp hình cầu phình ra màu vàng cam. Ngực và bụng trên có một lớp lông tơ màu trắng bao phủ. Mỗi bên của mảnh lưng ngực có một đốm màu đen. Phần dưới bụng có màu đỏ hoặc màu đỏ nhạt. Cánh trước có màu đen được phủ bởi một lớp lông tơ màu trắng như phấn ở nửa gần gốc, với nhiều đốm màu đen tương phản. Vùng ngọn cánh thường có màu đen với một số đốm màu xám không đồng nhất. Cánh sau màu vàng cam đến tận gốc cánh, phần ngọn cánh màu đen. Chiều dài từ đỉnh đầu đến tận mắt kép 12 -14mm, từ mắt kép đến hết bụng 17 - 22mm.
Sinh học, sinh thái:
Ấu trùng sống ở dưới đất và ăn các lớp mùn thảm thực vật rừng nơi phân bố. Ở Phú Thọ (VQG Xuân Sơn) ấu trùng loài này lột xác vào đầu mùa mưa (tháng 5) hàng năm. Xuất hiện cả ban ngày lẫn ban đêm. Đôi khi thấy chúng tụ tập thành từng đám với hàng chục cá thể trên cây nơi khu vực ấu trùng sinh sống.
Phân bố: Loài hiếm, chỉ gặp ở các tình Phú Thọ, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Ninh Bình (Cúc Phương) vào đến Huế (VQG Bạch Mã). Loài này sống ở các độ trung bình.

Nguồn : SVRVN & Internet

B.39- BỌ NGỰA TRUNG QUỐC

B.39- BỌ NGỰA TRUNG QUỐC
Sưu tập :

B.39- Bọ ngựa Trung Quốc - Tenodera sinensis

Bọ ngựa Trung Quốc - Tenodera sinensis là một loài bọ ngựa. Chúng có nguồn gốc từ Trung Quốc, và đã được du nhập vào Bắc Mỹ khoảng năm 1895 như một nguồn kiểm soát côn trùng dịch hại. Kể từ đó, chúng đã lan rộng khắp nhiều miền nam New England, và Đông Bắc Hoa Kỳ. Con trưởng thành có chiều dài đến 10 cm, là loài bọ ngựa lớn nhất ở Bắc Mỹ. Loài này thường bị đặt tên nhầm thành Tenodera aridifolia sinensis. Khi lần đầu tiên phân loại, người ta nghĩ rằng T. sinensis là một phân loài của T. Aridifolia.
Chế độ ăn uống của chúng bao gồm chủ yếu là các loài côn trùng khác, mặc dù con cái trưởng thành đôi khi có thể ăn cả con mồi là động vật có xương sống nhỏ như loài bò sát và loài lưỡng cư (một số trường hợp ghi nhận chúng săn cả chim ruồi). Giống như một số bọ ngựa khác, chúng là loài ăn thịt đồng loại. Những con cái có thể sản xuất một cái tổ cứng có kích thước của một quả bóng bàn, số lượng chứa có thể lên đến 200 trứng. Tổ này thường gắn vào cây như cây bụi và cây gỗ nhỏ. Màu sắc của chúng phong phú từ xanh tổng thể màu nâu với sọc ngang màu xanh lá cây trên các cạnh của cánh phía trước

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.38- BỌ NGỰA KHỔNG LỒ NHẬT BẢn

B.38- BỌ NGỰA KHỔNG LỒ NHẬT BẢN
Sưu tập :

B.38- Bọ ngựa khổng lồ Nhật Bản - Tenodera aridifolia

Tenodera aridifolia là một loài bọ ngựa trong phân họ Mantinae của họ Bọ ngựa, được Stoll miêu tả năm 1813. Đây là loài du nhập của Hoa Kỳ.
Các tên thường gặp của chúng bao gồm Bọ ngựa khổng lồ Nhật Bản,オオカマキリoo-Kamakiri ("bọ ngựa lớn") tại Nhật Bản, hoặc 왕사마귀 wang-samagwi ("bọ ngựa vua") tại Hàn Quốc, nhưng các phân loài Tenodera aridifolia angustipennis có nhiều tên thông thường khác nhau, bao gồm cả Bọ ngựa cánh hẹp,チョウセンカマキリchousen-Kamakiri ("bọ ngựa Hàn Quốc") ở Nhật Bản, hoặc 사마귀 cham-samagwi ("bọ ngựa thực sự") hoặc chỉ đơn giản là 사마귀 samagwi ("bọ ngựa") tại Hàn Quốc (trong tiếng Hàn 사마귀 có nghĩa là bọ ngựa và Tenodera angustipennis). Khoảng 200 nhộng sẽ nở ra từ một túi bào tử.

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.37- BỌ NGỰA CHÂU ÂU

B.37- BỌ NGỰA CHÂU ÂU
Sưu tập :

B.37- Bọ ngựa châu Âu- Mantis religiosa

Bọ ngựa châu Âu- Mantis religiosa ở châu Âu và nơi khác gọi loài này bằng tên Bọ ngựa cầu nguyện, là một trong những loài bọ ngựa được biết nhiều nhất và rộng rãi nhất trong bộ Bộ Bọ ngựa.
Đặc điểm nhận dạng:
Là loài côn trùng cỡ lớn, dài 40 - 80 mm, có hai cánh trước và hai cánh sau phát triển rộng. Hai cánh sau trông như tấm kính và chỉ ở viền trước trên đầu mút, cánh có màu xanh lá cây nhạt hoặc nâu nhạt, Đốt ngực trước dạng ống kéo dài và ở phía trong các x¬ơng chậu của đôi chân trước có 1 chấm đen, thường với một điểm nâu sáng ở chính giữa. Đôi chân trước có dạng l¬ưỡi kiếm, bờ trong có răng, dùng để bắt mồi và chiến đấu với kẻ thù. Con cái thường lớn hơn con đực (Cái 48 - 76 mm; đực 40 - 61 mm). Màu sắc thay đổi theo màu của nơi ở (nhất là khi rình mồi): màu thường xuất hiện xanh lá cây, màu cỏ úa hoặc vàng, nâu.
Sinh học, sinh thái: Thức ăn là các loại côn trùng khác nhau phụ thuộc loài này xuất hiện gần khi chúng rình mồi, nhưng đối với ấu trùng thì có chọn lọc và có thức ăn nhất định đó là rệp cây. Thậm chí Bọ ngựa còn ăn thịt lẫn nhau, đặc biệt là con cái có thể ăn thịt con đực ngay trong thời gian giao phối hoặc sau khi đó. Thời gian đẻ trứng từ đầu hè tới cuối thu. Con cái đẻ trứng sau khi giao phối ít lâu. Một lần đẻ khoảng 100 - 300 trứng sắp đều đặn trong tổ trứng. Trứng bọ ngựa được đẻ vào mùa hè hoặc đầu mùa thu thì nở ngay ra con sau một thời ngan ngắn (trên dưới 1 tháng). Trứng bọ ngựa được đẻ vào cuối mùa thu thường sống qua đông đến mùa xuân mới nở và ấu trùng lớn rất nhanh và sau 4 lần lột xác phát triển tới dạng trưởng thành.
Màu sắc cơ thể thường mang tích chất bảo vệ ngụy trang phù hợp với màu sắc của cây và nơi sống, loài này có 3 màu cơ bản như đã mô tả ở trên. Thường gặp chúng trên các cây to, cây bụi hơn là trên cây thân cỏ.
Phân bố: Việt Nam: khắp trên lãnh thổ Việt Nam, theo các tài liệu đã tìm thấy chúng ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Ninh Bình, Quảng Bình, Đây là loài duy nhất thuộc bộ bọ ngựa Mantodea được đưa vào sách đỏ Viêt Nam
Thế giới: là loài phân bố rộng ở cả vùng ôn đới và nhiệt đới thuộc các châu lục: châu Âu, châu Á, châu Phi, thậm chí cả ở Bắc Mỹ và Australia.
Giá trị: Đây là loài côn trùng có lợi nhiều hơn có hại vì chúng tiêu diệt nhiều côn trùng có hại, đặc biệt chúng còn ăn rất nhiều các loài rệp hại cây (Aphididae). Chúng còn làm đẹp cho thiên nhiên. Tuy nhiên đôi khi chúng còn ăn cả ong mật và các loại côn trùng có lợi khá

Nguồn : SVRVN & Internet

B.36- (5) Bộ Mantodea (Bọ ngựa)

B.36- (5) Bộ Mantodea (Bọ ngựa)


Bộ này gồm các loài bọ ngựa. Là loài côn trùng cỡ lớn, dài 40 – 80 mm, có hai cánh trước và hai cánh sau phát triển rộng. Hai cánh sau trông như tấm kính và chỉ ở viền trước trên đầu mút, cánh có màu xanh lá cây nhạt hoặc nâu nhạt. Đốt ngực trước dạng ống kéo dài và ở phía trong các xư¬ơng chậu của đôi chân trước có 1 chấm đen, thường với một điểm nâu sáng ở chính giữa. Đôi chân trước có dạng l¬ưỡi kiếm, bờ trong có răng, dùng để bắt mồi và chiến đấu với kẻ thù. Con cái thường lớn hơn con đực (Cái 48 – 76 mm; đực 40 – 61 mm). Màu sắc thay đổi theo màu của nơi ở (nhất là khi rình mồi): màu thường xuất hiện xanh lá cây, màu cỏ úa hoặc vàng, nâu.Chúng có mắt được ghép bởi nhiều tế bào thị giác khác nhau giúp chúng có thể nhìn từ khoảng cách rất xa.
Con non và trưởng thành đều ăn thịt các loài côn trùng nhỏ khác như ruồi, bướm, ấu trùng, bọ cánh, ong, gián, v.v... Con trưởng thành thậm chí còn ăn cả chim nhỏ, thằn lằn, rắn, chuột. Bọ ngựa thường treo mình lơ lửng trên thân cây hay cành lá chờ con mồi đi ngang qua, rồi dùng hai chân trước có gai nhọn bắt và kẹp con mồi lại (hành động này diễn ra rất nhanh), con mồi sẽ không chết ngay và bọ ngựa ăn dần con mồi khi mồi vẫn còn sống. Đây cũng là điều đặc biệt của bọ ngựa, bọ ngựa không bao giờ ăn những con mồi đã chết Rất nhiều bọ ngựa cái ăn thịt bạn tình của chúng sau và thậm chí ngay trong khi đang giao phối.
Bọ ngựa hầu hết là các loài côn trùng có ích cho các hoạt động sản xuất của con người vì chúng chỉ ăn các loại sâu bọ và không gây hại cho mùa màng. Tại Trung Quốc, người ta đã quan sát bọ ngựa săn mồi và từ đó nghĩ ra môn Đường lang quyền (đường lang trong tiếng Trung nghĩa là bọ ngựa).
Việt Nam: khắp trên lãnh thổ Việt Nam, theo các tài liệu đã tìm thấy chúng ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Ninh Bình, Quảng Bình, Đây là loài duy nhất thuộc bộ bọ ngựa Mantodea được đưa vào sách đỏ Việt Nam Thế giới: là loài phân bố rộng ở cả vùng ôn đới và nhiệt đới thuộc các châu lục: châu Âu, châu Á, châu Phi, thậm chí cả ở Bắc Mỹ và Australia.

B.35- MỐI GESTROI

B.35- MỐI GESTROI


Sưu tập :

Mối Gestroi - Coptotermes gestroi

Mối Gestroi - Coptotermes gestroilà một loài côn trùngtrong họ Rhinotermitidae. Loài này được Wasmann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1896.
Đây là loài gây hại phát triển phổ biến ở Mexico

Nguồn : Wikipedia & Internet

B.34- MỐI DẤT ĐÀI LOAN

Rhinotermitidae là một họ mối (Isoptera).Chúng ăn gỗ và có thể gây thiệt hại lớn cho các tòa nhà và các kết cấu gỗ. Họ này có khoảng 345 loài được công nhận, trong đó có các loài gây hại nghiêm trọng như Coptotermes formosanus, Coptotermes gestroi và Reticulitermes flavipes.

B.34- MỐI DẤT ĐÀI LOAN
Sưu tập :

Mối đất Đài Loan- Coptotermes formosanus

Mối đất Đài Loan- Coptotermes formosanus là một loài mốitrong họ Rhinotermitidae. Nó đã được vận chuyển đi đến khắp nơi trên thế giới từ quê hương nguồn gốc của nó ở miền nam Trung Quốc đến Đài Loan (Đài Loan trước đây được các nước phương Tây gọi là Formosa, nơi mà nó lấy danh pháp khoa học) và Nhật Bản. Trong thế kỷ 20, nó đã trở thành thành lập tại Nam Phi, Hawaii và trong lục địa Hoa Kỳ. Mối đất Đài Loan thường có biệt danh siêu mối bởi vì thói quen hủy diệt của nó. Điều này là bởi vì kích thước lớn của các tập đoàn mối, và khả năng của các mối tiêu thụ gỗ với tốc độ nhanh. Một tập đoàn mối đơn lẻ có thể chứa hàng triệu cá thể (so với vài trăm ngàn mối cho các loài mối khác dưới mặt đất) mà tàn phá lên đến 300 foot(100 m) trong đất. Một tập đoàn mối đất Đài Loan trưởng thành có thể tiêu thụ đến 400 gram gỗ một ngày[1]và gây thiệt hại một cấu trúc trong ít nhất là ba tháng. Bởi vì kích thước dân số và phạm vi tìm kiếm thức ăn, sự hiện diện của một tập đoàn mối đất Đài Loan đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với cấu trúc gần đó. Sau khi thành lập, mối đất Đài Loan chưa bao giờ được loại trừ từ một khu vực. Mối đất Đài Loan là một loài gây hại một loạt các cấu trúc (bao gồm cả tàu thuyền và chung cư cao tầng) và có thể gây tổn thương cây. Tại Hoa Kỳ, cùng với một loài khác, Coptotermes gestroi, cũng được giới thiệu từ Đông Nam Á, họ chịu trách nhiệm về thiệt hại to lớn về tài sản dẫn đến chi phí điều trị lớn và sửa chữa.
Mối đất Đài Loan đã được mô tả lần đầu tiên tại Đài Loan vào đầu thế kỷ 20, nhưng mối đất Đài Loan có lẽ là đặc hữu của miền nam Trung Quốc. Loài phá hoại này dường như được vận chuyển đến Nhật Bản trước khi thế kỷ 17 và Hawaii vào cuối thế kỷ 19 (Su và Tamashiro 1987). Đến năm 1950, nó đã được báo cáo tại Nam Phi và Sri Lanka. Trong những năm 1960, nó đã được tìm thấy tại Texas, Louisiana, và Nam Carolina. Năm 1980, một thuộc địa cũng như các thiết lập đã được phát triển mạnh trong một nhà chung cư trong Hallandale Beach, Florida. Mối đất Đài Loan hiếm khi được tìm thấy ở phía bắc của 35 ° vĩ Bắc. Chúng đã được báo cáo từ 11 quốc gia bao gồm: Alabama, California, Florida, Georgia, Hawaii, Louisiana, Mississippi, North Carolina, South Carolina, Tennessee, và Texas. Phân bố của chúng họ có thể sẽ tiếp tục bị hạn chế đến các khu vực phía nam của Hoa Kỳ bởi vì những quả trứng nở dưới khoảng 20 °C (68 °F)

Nguồn : Wikipedia & Internet