Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012

214- KIM GIAO

4- HỌ THÔNG TRE PODOCARPACEAE

Họ Thông tre tên khoa học là Podocarpaceae, ở Việt nam xuất hiện nhiều với loài kim giao (thuộc chi nageia) nên trong văn bản người ta thường có thói quen gọi là họ Kim giao. Họ này có khoảng 18-19 chi với 170-200 loài. Ở Việtt Nam có ba chi:
1Chi Kim giao Nageia
Kim giao tên khoa học Nageia fleuryiBài 214 
2Chi Thông tre Podocarpus
-Thông tre tên khoa học Podocarpus neriifoliusBài 215
Thông la hán tên khoa học Podocarpus chinensisBài 216
3- Chi Thông nàng Dacrycarpus
-Thông nàng tên khoa học Dacrycarpusimbricatus Bài 217
-Thông vẩy tên khoa học Dacrydium elatum (Hoàng đàn giả) Bài 218

214- KIM GIAO



[img]http://220.231.117.38/bc//components/com_medialibrary/covers/1_4b588f78.JPG[/img]

Cây Kim giao cảnh


KIM GIAO
Em Kim giao sống vùng núi đá 
Từ Hà Giang cho đến Ninh Bình
Gỗ vàng, thớ thẳng, mịn xinh
Mỹ nghệ, nhạc cụ dân mình rất ưa.
BXP
Sưu tập
Cây Kim giaotên khoa học Nageia fleuryiChi Nageia Kim giao, Họ Thông trePodocarpaceaeBộ Tùng bách Pinales
Cây gỗ nhỡ thân thẳng vỏ bong mảng .Tán hình trụ. Phân cành ngang, cành non màu xanh. Lá dầy hình trái xoan ngọn giáo hoặc trứng, đầu nhọn dần đuôi nêm, lá dài 7-7cm rộng 1,6-2cm mọc gần đối hơi vặn ở cuống cùng với cành làm thành mặt phẳng. Gân lá nhiều hình cung.
Nón đực hình trụ dài 2cm, th*ờng 3-4 chiếc mọc cụm ở nách lá. Nón cái mọc lẻ ở nách lá .Quả nón hình cầu, đường kính 1,5-2cm khi chín màu đen, cuống dài 2cm dễ hoá gỗ, to bằng cuống.
Kim giao sinh trư*ởng t*ương đối chậm, tái sinh tự nhiên tốt 
Mọc rải rác trong rừng lá rộng th*ường xanh ở vùng núi đá Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Nam, Ninh Bình 
Gỗ kim giao màu vàng nhạt, thớ thẳng, mịn khi khô ít biến dạng thích hợp làm đồ mỹ nghệ, nhạc cụ. Hạt chứa 30% dầu có thể ép dùng trong công nghiệp. Cây thư*ờng xanh, tán dẹp có thể trồng làm cảnh.

3- HỌ BÁCH TÁN ARAUCARIACEAE

3- HỌ BÁCH TÁN ARAUCARIACEAE
Họ Bách tán Araucariaceae là một họ rất cổ trong số các nhóm thực vật quả nón, đạt tới sự đa dạng lớn nhất trong kỷ Jura và kỷ Phấn trắng, khi mà chúng có mặt gần như khắp mọi nơi trên toàn thế giới, nhưng chủ yếu là trên lục địa Gondwana. Ngày nay, họ này còn 3 chi gồm AgathisAraucaria và Wollemia, với khoảng 41 loài, phân bổ chủ yếu tại Nam bán cầuở Việt Nam chỉ có một chi Araucaria.
*Cây BÁCH TÁN Bổ xungBài 141
Bách tán Chile, (Araucaria araucana)
Bách Tán Nam, Vương Tùng, Tùng Nhật Araucaria columnaris
Tùng bách tán
Araucaria excelsa hayAraucaria heterophylla. Còn gọi là Vương Tùng.
 
Bách tán
1. Nón cái; 2. Nhánh mang bông bào tử đực
 
BÁCH TÁN

Em Bách tán vốn quê Nam cực
Sinh trưởng nhanh, gỗ tốt dựng xây
Người yêu trồng cảnh nơi này
Trồng đất, trồng chậu vẫn ngây mắt người.
BXP
Sưu tập
Cây bách tántên khoa học Araucaria encelsa R.B chi Araucariavương tùng, họ Bách tán Araucariaceaebộ Pinales Tùng bách
Cây gỗ thường xanh, cao trên 60 m, đường kính 200 cm. Thân có những vòng thật và giả hình thành trong từng năm. Cành mọc vòng nằm ngang thường 6 cái một chồng lên nhau, càng lên cao càng ngắn dần tạo thành tán hình tháp (nên có tên là BT). Lá hình mác, xếp sít nhau theo hình xoắn ốc. Nón cái hình bầu dục gồm nhiều vảy hạt, mỗi vảy có một noãn phát triển thành hạt lớn. Nón chín to tới 30 cm. Nguồn gốc ởTân Calêđôni (Nouvelle -Caledonie).. Trồng bằng hạt hoặc giâm cành. Sinh trưởng tương đối nhanh. BT cho gỗ quý dùng trong xây dựng. Vỏ cho dầu dùng trong công nghiệp và y dược. Sử dụng làm cây cảnh ở Việt Nam và nhiều nướcỞ ta cây ra hoa mà quả cho hạt thường không có nhân nên gieo không được, phải nhập hạt từ Thụy Điển hay Thụy Sĩ đặc biệt cây này rất khó chiết và giâm cành. Hiện nay, người làm cây cảnh đã giâm chiết được. Nếu muốn chiết hay giâm cần cắt ngọn cho cây phát nhiều nhánh mọc thẳng và chiết các nhánh đó phải tỉa các nhánh tới sát thân cành, lấy được một chút vỏ của thân. Dùng thuốc kích thích ra rễ mới dễ sống. Mùa chiết giâm nên vào đầu mưa xuân. 

213-THUỶ TÙNG

213-THUỶ TÙNG
 Thông nước Thông nước
 Thủy tùngTHUỶ TÙNG
Em, Thuỷ tùng, sống nơi ven nước
Thân giống Thông, gỗ tốt, nhiều vân, 
Nhiều mầu đẹp lại rất thơm...
Khai thác quá mức...liệu còn có em?
BXP
Sưu tập
Thông nướchay Thủy tùng tên khoa họcGlyptostrobus pensilis,thuộc chiGlyptostrobus Thủy tùng,họCupressaceae Hoàng đànbộ Pinales Tùng bách 
Cây gỗ cao đến 30 m hay hơn, đường kính thân 0,6 - 1 m hay hơn. Vỏ dày, hơi xốp, màu xám, nứt dọc. Cây có rễ khí sinh không bị ngập, phát sinh từ rễ bên, cao 30 cm, mọc lan xa cách gốc tới 6-7 m. Cây rụng lá, có tán hình nón hẹp. Lá có 2 dạng: ở cành dinh dưỡng có hình dùi, xếp thành 2-3 dãy, rụng vào mùa khô, ở cành sinh sản có hình vảy và không rụng. Nón đơn tính, cùng gốc, mọc riêng rẽ ở đầu cành. Nón cái hình quả lê, mỗi vảy mang 2 noãn. Sau khi thụ tinh các vảy hóa gỗ và dính nhau ở gốc tạo thành một nón với các vảy gần như liền nhau 7 - 9 mũi nhọn hình tam giác, hơi uốn cong ra phía ngoài, mỗi vảy mang 2 hạt, hình trứng, mang cánh hướng xuống dưới.
Gỗ thủy tùng rất tốt, không bị mối mọt, có mùi thơm, nhiều màu: xanh đen, xanh ngọc bích, tím, vàng, đỏ, nâu đỏ và nhiều loại vân khác nhau: vân chỉ, chuối... rất đẹp nên được ưa chuộng để xây đền đài, nhà cửa, làm đồ mỹ nghệ, đồ dùng cao cấp. Loài này có nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên vì bị khai khác quá mức.

212-SAMU (Sa Mộc)

212-SAMU (Sa Mộc)


hàng cây SaMu ven hồ Xuân Hương duy nhất ở Dalat

lá hoa, trái non
[img]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/35/Cunninghamia_lanceolata1.jpg/220px-Cunninghamia_lanceolata1.jpg[/img]
Nón cái của C. lanceolata
[img]http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/81/Cunninghamia_lanceolata0.jpg/220px-Cunninghamia_lanceolata0.jpg[/img]
Cụm các nón đực của C. lanceolata
SAMU (Sa Mộc)
Quê em Đà Lạt mây Thu
Nghiêng mình soi bóng bên hồ Xuân Hương
Gỗ tốt lại có mùi thơm
Xây dựng đền miếu, cũng làm... áo quan.
BXP
Sưu tập
Sa mộc tên khoa họcCunninghamia lanceolata, chiCunninghamia Sa mộc,họCupressaceae Hoàng đànbộ Pinales Tùng bách 
Dáng cây hình nón với các cành ngang mọc thành tầng, thông thường hơi rủ xuống ở phía đầu cành, lá kim với ngạnh mềm, dai như da, cứng, màu xanh lục, mọc vòng xung quanh thân theo hình cung đi lên. Tán lá có thể trở thành màu nâu đồng khi thời tiết quá lạnh. Các nón nhỏ và không dễ thấy khi thụ phấn vào cuối mùa đông, các nón đực mọc thành cụm khoảng 10-30 nón, còn các nón cái mọc đơn lẻ hoặc 2-3 nón cùng nhau. Các nón hình trứng hoặc hình cầu, với các vảy mọc xoắn; mỗi vảy chứa 3-5 hạt, chín sau 7-8 tháng. Chúng thường phát triển nhanh trên các cây do người trồng, nhưng lại hiếm ở cây mọc hoang, và có thể là giống cây trồng được chọn lọc để dễ dàng nhân giống bằng phương pháp sinh dưỡng trong trồng rừng.
Khi cây càng lớn thì thân của nó có xu hướng tạo ra các chồi rễ mút xung quanh gốc khi bị các vết thương ở thân hay rễ, các chồi rễ mút này có thể phát triển để tạo thành cây nhiều thân. Vỏ của các thân cây lớn có màu nâu dễ dàng bị lột ra để lộ phần vỏ bên trong màu nâu đỏ.
Gỗ sa mộc mềm, có hương thơm và khá bền, là loại gỗ được đánh giá cao, dùng trong xây dựng đền miếu và sản xuất các loại quan tài. Nó cũng được trồng làm cây cảnh trong các công viên và các khu vườn lớn, tại đây thông thường nó cao khoảng 15-30 m.

211-PƠMU

211-PƠMU
Lá Pơ Mu:
cây Pơ Mu
Những vạt rừng Pơ Mu:

Pơ mu (Fokienia hodginsii) ở Lào Cai.
PƠMU
Mùi thơm, vân đẹp đặc trưng
Pơmu em sống khắp rừng Việt Nam
Gỗ quí gia dụng - người ham....
Nguy cơ diệt chủng....Biết làm sao đây?
BXP
Sưu tập
Pơmutên khoa họcFokienia hodginsii, chi Fokieniapơ mu, ,họCupressaceae Hoàng đànbộ Pinales Tùng bách
Pơmu hay đinh hương, tô hạp hươnglà cây gỗ thường xanh, cao 25-30 m. Cây khi còn non có vỏ màu ánh nâu-xám dễ bị tróc, già hơn trên vỏ có các vết nứt theo chiều dọc, có mùi thơm. Lá cây trưởng thành mọc thành các cặp chéo chữ thập đối, các cặp so le không cách nhau đều đặn vì thế chúng biểu hiện như là các vòng xoắn 4 trên cùng một mức. Các lá ở phần bên có dạng hình trứng và bị nén, còn các lá mặt có dạng mác ngược với đỉnh tam giác. Trên các cây non thì các lá lớn hơn, dài tới 8-10 mm và rộng 6 mm. Các nón đực có hình trái xoan hoặc hình trụ, có từ 3 đến 5 cặp vảy bắc. Các nón cái lớn hơn nhiều, dạng hình cầu hay gần như hình cầu và chín vào năm thứ hai. Chúng có 5-8 cặp vảy bắc. Trên mỗi vảy bắc có 2 hạt có cánh. Các hạt dài khoảng 4 mm, có góc cạnh và đầu nhọn. Trên các mặt trên và dưới có 2 chỗ phồng lớn chứa nhựa. Các cánh ở hai bên và không đều nhau.
Pơmutại Việt Nam mọc trên các địa hình đất đá vôi hay đất nguồn gốc granit từ độ cao 900 m trở lên, là loại gỗ quý do mùi thơm đặc trưng, vân gỗ đẹp cũng như trọng lượng khác thường và đặc tính không bị mối mọt phá hoại của nó; vì thế gỗ được sử dụng để làm các đồ tạo tác mĩ thuật, các loại đồ gia dụng. Nó là loài nguy cấp tại Việt Nam và được đưa vào Sách đỏ Việt Nam năm 1996. Sản phẩm chưng cất từ thân, lá và đặc biệt là từ rễ pơ mu, là tinh dầu được dùng trong hóa mỹ phẩm và y học.

210-HOÀNG ĐÀN (Bách, Ngọc am)

210-HOÀNG ĐÀN (Bách, Ngọc am)

Tán lá và nón của Cupressus sempervirens(Bách nghiã địa)

 
Cupressus sempervirens
Bách nghiã địa

Cupressus funebris
 ngọc am

Cupressus torulosa
 (phía trái) 
HOÀNG ĐÀN
Ngọc am, còn gọi Hoàng đàn
Gỗ không mối mọt, mùi thơm ưa dùng
Tinh dầu chữa bệnh tấy sưng...
Áo quan vua chúa xưa từng chuộng ưa.
BXP
Sưu tập
Chi Hoàng đàn hay chi Bách tên khoa họcCupressus thuộchọCupressaceae Hoàng đàn, bộ Pinales Tùng bách 
Một số loài thông dụng:
-Bách nghiã địa tên khoa họcCupressus sempervirens
-Ngọc amtên khoa họcCupressus funebris(hoàng đàn rủ, hoàng đàn liễu,)
- Hoàng đàntên khoa họcCupressus torulosa(bách Himalaya) 
Cây gỗ thường xanh có thể cao tới 40m, đường kính tới 90cm. vỏ xám nâu nứt dọc, cành non vuông cạnh phân nhánh trên cùng mặt phẳng, lá hình vảy, nhỏ,mọc từng đôi, xít nhau và áp sát vào cành. Nón đơn tính cùng gốc: Nón đực hình trái xoan thuôn, nón cái hình cầu hoặc trứng rộng đính trên cuống ngắn 4mm. Vẩy nón 6 đôi mọc vòng, mặt vẩy hình 5 cạnh có đường gờ tỏa tròn.mỗi vảy mang 6-8 hạt. Hạt hình cầu bẹt có cánh mỏng. Hoàng đàn sinh trưởng chậm, tái sinh kém..Ra hoa tháng 4, nón chín tháng 5, tháng 6 năm sau. 
Hoàng đàn là loài cây cho gỗ quý, không bị mối mọt, dùng trong xây dựng và đóng đồ dùng trong gia đình. Gỗ mục có mùi thơm, dùng làm hương tốt. Rễ và cả gỗ thân cây dùng để cất tinh dầu; cứ khoảng 150kg cất được 7-8 lít tinh dầu; ở rễ, hàm lượng tinh dầu cao hơn. Tinh dầu dùng làm thuốc xoa bóp chỗ sưng tấy và chữa bệnh ngoài da, sai khớp xương, bôi vết thương chóng lành. Vỏ cây nấu cao chữa đau bụng.

209-LIỄU SAM

209-LIỄU SAM
 [img]upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b8/Jhomonsugi_in_Yaku_Island_Japan_001.JPG/240px-Jhomonsugi_in_Yaku_Island_Japan_001.JPG[/img]
"Jomon sugi", cây liễu sam lớn nhất đã biết, tại Yakushima, Nhật Bản
 [img]upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0b/Cryptomeria-Saint-Gilles.jpg/220px-Cryptomeria-Saint-Gilles.jpg[/img]
Một cánh rừng liễu sam

[img]upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/61/Tree_lined_path_to_the_Togakushi_shrine1.jpg/220px-Tree_lined_path_to_the_Togakushi_shrine1.jpg[/img]
Đường hàng cây liễu sam tại khu vực lăng Togakushi tại Nagano.

LIỄU SAM
Em là con gái Phù Tang
Sống nơi đền miếu hàng hàng tươi xinh
Ơn người ý nguyện tâm linh
Để em được hiến bóng mình che dân.
BXP
Sưu tập
Liễu samtên khoa họcCryptomeria japonica,chi Cryptomeri Liễu sam,họCupressaceae Hoàng đànbộ Pinales Tùng bách
Chi Liễu sam Cryptomeri chỉ có một loài duy nhất là Cryptomeria japonica.
Nó là một loài cây thân gỗ lớn và lá thường xanh, cao tới 70m, đường kính thân đạt tới 4 m với vỏ màu nâu đỏ dễ bóc theo chiều dọc. Các lá mọc xoắn, hình kim, các nón hạt hình cầu với khoảng 20-40 vảy. Liễu sam đã được trồng từ lâu ở Trung Quốc, một số người cho rằng nó có nguồn gốc ở đây với tên Cryptomeria fortunei, nhưng trên thực tế nó không có chứng cứ rõ ràng là loài này đã từng tồn tại trong tự nhiên ở Trung Quốc. Liễu sam là loài đặc hữu, là quốc thụ của Nhật Bản, trong tiếng Việt gọi là liễu sam hay bách Nhật Bản, được trồng xung quanh các đền miếu, với nhiều cây có kích thước to lớn đầy ấn tượng đã được trồng hàng thế kỷ trước.Sargent trong The Forest Flora of Japan (1894) đã ghi chép lại về một daimyo vì quá nghèo không thể phúng viếng cửa trời bằng đá tại lễ tang của tướng quân Tokugawa Ieyasu (1543-1616) ở thần xã Nikkō Tōshō-gū đã đề nghị được trồng một hàng cây liễu sam, để những người viếng thăm trong tương lai không bị nắng. Hàng cây này còn tồn tại tới ngày nay, nó dài trên 65 km và không có gì sánh được với nó về độ hùng vĩ trang nghiêm. Gỗ của nó có hương thơm, màu hồng ánh đỏ, nhẹ nhưng cứng, không thấm nước và chống chịu được sâu mục. Nó được ưa thích tại Nhật Bản cho mọi loại công trình xây dựng cũng như làm gỗ lót ván bên trong các công trình đó.