Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

335- TỎI

335- TỎI




TỎI
Em họ Hành, tên quê gọi: Tỏi
Được người yêu là bởi vì em
Có kháng sinh allicin
Sát trùng giải độc ... "thuốc Tiên" của người
BXP

Sưu tập
Tỏi tên khoa học Allium sativum L., chi Alium Hành,họ Hành LiliaceaeBộ Liliales Loa kèn, bộ Hành.
Cây thảo sống nhiều năm. Thân thực hình trụ, phía dưới mang nhiều rễ phụ, phía trên mang nhiều lá. Lá cứng, hình dải, có rãnh khía, mép lá hơi ráp. Ở mỗi nách lá phía gốc có một chồi nhỏ sau này phát triển thành một tép Tỏi; các tép này nằm chung trong một cái bao (do các bẹ lá trước tạo ra) thành một củ Tỏi tức là thân hành (giò) của Tỏi. Hoa xếp thành tán ở ngọn thân. Bao hoa màu trắng hay hồng bao bởi một cái mo dễ rụng tận cùng thành mũi nhọn dài. 
Hoa tháng 5-7, quả tháng 9-10
Thành phần chủ yếu của tỏi là một chất kháng sinh allicin - hợp chất sunfua có tác dụng diệt vi khuẩn rất mạnh đối với vi trùng Staphyllococcus, thương hàn, phó thương hàn, lỵ, tả, bạch hầu…
Tỏi có vị cay, tính ấm có tác dụng hành khí tiêu tích, sát trùng giải độc, ức chế các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh và có tính lợi tiểu nhờ vào các fructosan và tinh dầu.
Tỏi thường được dùng làm gia vị phi thơm giúp món ăn thêm mùi hấp dẫn, đồng thời là thuốc chữa bệnh đái đường, phòng ngừa trạng thái ung thư, giúp chống những bệnh như đau màng óc, bệnh xơ cứng động mạch, huyết áp cao...
Ðơn thuốc: 
1. Cảm cúm: Ăn Tỏi và chế nước Tỏi nhỏ mũi. Mỗi lần dùng 1-2g Tỏi tươi. 2. Chữa lỵ amip, lỵ trực khuẩn: Ngày dùng 4-6g Tỏi sắc uống hoặc giã 10g Tỏi, ngâm vào 100ml nước nguội; trong 2 giờ, lọc bỏ bã, lấy nước thụt vào hậu môn, giữ lại độ 15 phút. Thụt mỗi ngày 1 lần. Ðồng thời ăn mỗi ngày 6g Tỏi sống chia làm 3 lần. Ðiều trị 5-7 ngày thì có kết quả. 
3. Ung nhọt, áp xe viêm tấy: Giã giập Tỏi, đắp 15-20 phút (không để lâu dễ bị bỏng da). Có thể trộn với ít dầu Vừng mà đắp. 
4. Chữa đầy bụng, đại tiểu tiện không thông: Giã Tỏi rịt vào rốn (cách ly bằng lá lốt hay lá trầu hơ héo), đồng thời lấy Tỏi giã giập bọc bông lại nhét vào hậu môn (Nam dược thần hiệu). 
5. Trị giun kim, giun móc: Thường xuyên ăn Tỏi sống hoặc dùng nước Tỏi 5-10% 100ml, thụt vào hậu môn.

334- HÀNH

334- HÀNH
Cây HànhHÀNH
Thân hành, hoa trắng hay nâu
Lá trụ rỗng, cụm hình đầu nhiều hoa
Vốn là gia vị mọi nhà
Em còn chữa bệnh... danh gia họ Hành!
BXP
Sưu tập
Hànhtên khoa họcAlium fistulosum L.,chi Alium Hành,họ Hành LiliaceaeBộ Liliales Loa kèn, bộ Hành.
Cây thảo sống nhiều năm, cao tới 50cm, có thân hành nhỏ, trắng hay nâu, chỉ hơi phồng, rộng 0,7-1,5cm. Lá màu xanh mốc, hình trụ rỗng, có 3 cạnh ở dưới, dài đến 30cm, có bẹ lá dài bằng 1/4 phiến. Cán hoa (trục mang cụm hoa) cao bằng lá. Cụm hoa hình đầu tròn, gồm nhiều hoa có cuống ngắn; bao hoa có các mảnh hình trái xoan nhọn màu trắng có sọc xanh; bầu xanh đợt. Quả nang. Cây ra hoa vào mùa xuân, mùa hè.
Cây được trồng khắp nơi làm gia vị và làm thuốc.
Làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu, sát trùng, chữa đau răng, chữa tê thấp, chữa cảm mạo, nhức đầu...
Hành là món gia vị ưa thích của nhiều người. Thành phần dinh dưỡng không phải là nguyên nhân chủ yếu khiến hành được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực; mà điều đặc biệt hơn đó là khả năng chữa bệnh của hành.

333- HOA TULIP

333- HOA TULIP

Hoa Tulip đỏ

HOA TULIP
I
Khát khao hiệp sỹ lừng danh
Mơ gươm no máu...nên thành mất em!
Nàng ôm gươm cắm trái tim
Máu nàng nhuộm đỏ.... mọc lên hoa này.
II
Có nàng Tulip chân quê
Điền chủ bắt cóc đem về dệt đan...
Quyết tâm trốn...thật gian nan
Chạy hoài kiệt sức...xác nàng thành hoa....
BXP
Sưu tập
Tulipahọ Liliaceae Họ Loa kèn, Bộ Liliales Loa kèn, bộ Hành
HOA TUYLIP có rất nhiều loài, không tìm được tên khoa học cụ thể, gọi chung là Tulip – Tuylipa, Còn gọi là Uất kim hương, có nhiều màu như vàng, đỏ thắm, tím, tía nhạt, tía thắm, hồng tươi… Hoa đơn, thanh tao, có dạng cốc rượu thánh, cũng có loài hoa nhiều cánh như French Parrot Tulip. Sống trong bình từ 5 – 7 ngày, khi cắm bình nhớ cắt chếch trên thân sữa, lau khô nhựa, ngâm ngập nước vào nước nguội, gói trong giấy để làm thẳng các thân cọng. Hoa mang ý nghĩa Lời bày tỏ của tình yêu. 
Sự tích hoa Tulip có nhiều truyền thuyết, chỉ tóm lược hai truyền thuyết:
+ Có chàng trai rèn được thanh gươm quý, suốt ngày chỉ mê mẩn gươm được tắm máu để mình trở thành hiệp sỹ lừng danh, không hề biết có người con gái yêu chàng. Người con gái thấy chàng chỉ say mê gươm liền cầm gươm đâm thẳng vào trái tim mình, gươm đã được uống no máu nàng. Nhưng cũng từ đó mọi người đã xa lánh chàng, không ai nhận lời thách đấu với chàng...và rồi chợt nhận ra mình đã đánh mất điều quý giá nhất: tình yêu của nàng. Chàng thấy cô đơn và hối hận...đã cắm thanh gươm vào đất tuyết và gục xuống bên cạnh. Từ nơi thanh gươm mọc ra một cây hoa đẹp: Tulip.
+ Có cô gái quê tên Tulip bị tên điền chủ bắt cóc mang về bắt dệt thảm, sống trong những điều kiện nghiệt ngã, thiếu ánh mặt trời... Nàng đã nhờ bạn giúp đỡ trốn chạy, thương tích đầy mình..., bị tên điền chủ truy đuổi gắt gao..., nàng kiệt sức, gắng vùng dậy lao vào chân ngựa, ngựa ngã, tên điền chủ bị thương nặng, nàng đã lìa đời...Từ nơi xác nàng mọc lên một cây hoa đẹp...

332- BÁCH HỢP SAN HÔ


5- Liliaceae Họ Loa kèn
Họ Loa kèn (Liliaceae),trước đây còn gọi là họ Hành (theo tên chi Allium). Các loài trong họ này có các lá thẳng, chủ yếu với các gân lá song song và các phần của hoa là ba đoạn.
Rất nhiều loài trong họ Liliaceae là các cây cảnh quan trọng, được trồng rộng khắp để lấy hoa rất đẹp của chúng. Phần lớn các chi là các loại cây có chứa chất độc nếu ăn phải. Họ Loa kèn trước đây bao gồm một lượng lớn (khoảng 130 chi) mà hiện nay người ta đã tách ra để đưa vào các họ khác và một số sang các bộ khác, hiện tại chỉ còn 17 chi, chỉ giới thiệu chi Loa kèn và chi hoa Tulip. 
+ Chi Convallaria Lan chuông đã chuyển sang họ Ruscaceae và đã sưu tập hoa Linh lan ở bài 132
+ Chi Hành (Allium) là chi thực vật có chứa hành, tỏi với khoảng 1.250 loài, thông thường được phân loại trong họ Hành (Alliaceae) nhưng chưa sưu tập, nay sẽ ST. + Lilium là một chi thực vật thân thảo mọc từ củ. Phần lớn các loài có nguồn gốc ôn đới Bắc bán cầu với khoảng 110 loài. Đã giới thiệu hoa Bách hợp bài 148.
Hoa ở Đà Lạt gọi là Loa kèn hay Thuỷ vu thực chất là hoa Vân môn có nhiều mầu mà tôi đã nhầm ST hoa Huệ tây. Hoa Loa kèn thực sự thuộc chi Lilium, còn gọi Bách hợp, Huệ tây, có mặt trong bức tranh "Thiếu nữ bên hoa Huệ" của HS Tô Ngọc Vân. Hoa Thuỷ vu thực sự thuộc chi Calla L.
332- BÁCH HỢP SAN HÔ

Bách Hợp San Hô Lilium pumilum
BÁCH HỢP SAN HÔ
Em Bách Hợp San Hô thiếu nữ 
Giữa nồng nàn nắng Hạ tươi xinh
Như Lily một dáng hình
Tháng Tư về lại lung linh sắc mầu.
BXP
Sưu tập
Bách Hợp San Hôtên khoa họcLilium pumilum, chi Lilium, họ Liliaceae Họ Loa kèn,Bộ Liliales Loa kèn, bộ Hành
Bách Hợp San Hô Lilium pumilum (Pháp gọi là Lys Corail) cũng giống như hoa huệ trắng Lily, (Bách Hợp, Loa kèn, tên Pháp là Lys), chỉ khác là màu đỏ.
hoa huệ trắng LilyLilium longiflorum

331- THỔ PHỤC LINH

331- THỔ PHỤC LINH




THỔ PHỤC LINH
Thổ phục linh hay tên Khúc khắc
Dây leo, cành zíc zắc, hoa đơn
Giải độc, phong thấp, chống viêm
Là cây thuốc quý, giữ gìn Bậc V.
BXP
Sưu tập
Thổ phục linhtên khoa họcSmilax glabra, chi Smilax, Họ Smilacaceae Khúc khắc, Bộ Liliales Loa kèn, bộ Hành
Thổ phục linhcòn có tên là cây Khúc khắc, Vũ dư lương, Thổ tỳ giải, Sơn kỳ lương, thường mọc hoang ở rừng núi. Rễ củ được thu hái làm thuốc. 
Dây leo, cành zíc zắc, nhẵn không gai. Lá đơn mọc cách, phiến lá hình mác thuôn, 3 gân chính, mép lá viền dày, dài 5 - 18cm, rộng 2 - 7cm. Hoa đơn tính khác gốc, họp thành tán ở nách lá. Hoa màu hồng hoặc điểm chấm đỏ.Nụ hoa gần hình cầu, 3 cạnh thô. Quả chín màu tím đen có phấn ở ngoài.
Hoa tháng 5-6, quả tháng 8-12. 
Cây mọc nhiều ở vùng rừng núi các tỉnh như Quảng ninh, Nam hà, Ninh bình, thường gặp ở ven đường trong các bờ bụi, trên các đồi trọc. Ta cũng thu hái rễ củ vào mùa hạ, mang về rửa sạch rồi phơi hay sấy khô
Cây thuốc qúy, thân rễ được dùng làm thuốc chữa phong thấp, gân xương co quắp đau nhức, tràng nhạc, ung nhọt, giải độc thủy ngân. Thân rễ có thể ngâm rượu với một số cây con khác làm thuốc bổ. Thân rễ của loài này được xuất khẩu với khối lượng lớn sang Lào.
Mức độ đe doạ: Bậc V.

330- CÂY BẢ CHÓ

330- CÂY BẢ CHÓ



CÂY BẢ CHÓ
Hoa trắng, tím, nhiều mầu rực rỡ
Độc đầy thân - Bả chó là tên
Nhưng người biết quý yêu em
Cũng nhiều cống hiến làm nên diệu kỳ.
BXP
Sưu tập
Cây bả chótên khoa họcColchicum autumnale,chi Colchicum, họColchicaceae Họ Bả chó, Bộ Liliales Loa kèn, bộ Hành
Cây bả chócòn gọi là báo vũ, thu thủy tiên, huệ đất hay nghệ tây mùa thu, tên gọi cuối là do nó có bề ngoài khá giống với cây nghệ tây thực thụ, nhưng nó chỉ nở hoa về mùa thu. (Tuy nhiên, đây không phải là một sự phân biệt đáng tin cậy, do nhiều loài nghệ tây thực thụ cũng nở hoa vào mùa thu). Nó còn có tên gọi trong tiếng Anh là "naked lady" do một thực tế là các hoa nổi lên từ mặt đất rất lâu sau khi các lá đã chết.
Loài thực vật này hay bị những người cắt cỏ nhầm lẫn với tỏi gấu (Allium ursinum), do nó hơi giống với loài cây này, nhưng nó là một loài cây độc gây chết người do sự có mặt của chất độc colchicin. Triệu trứng ngộ độc colchicin tương tự như ngộ độc thạch tín (asen) và không có thuốc giải độc. Mặc dù là một chất độc, nhưng colchicin vẫn được chấp thuận cho sử dụng để điều trị bệnh gút và còn được dùng trong nhân giống thực vật để sản xuất các giống đa bội.

5- Bộ Liliales Loa kèn, bộ Hành


5- Bộ Liliales Loa kèn, bộ Hành
Các họ:Alstroemeriaceae Họ Loa kèn Peru, Corsiacea (Giới thiệu một số ảnh cây)
3- Colchicaceae Họ Bả chó(Giới thiệu cây Bả chó)
10- SmilacaceaeHọ Khúc khắc Giới thiệu câyThổ phục linh, hayKhúc khắc
5- Liliaceae Họ Loa kèn Chủ yếu sưu tập họ này.
1- Alstroemeriaceae Họ Loa kèn Peru




4- Corsiaceae
Họ này chỉ chứa chi Corsia, các loài là thực vật thân thảo không tự dưỡng (nghĩa là chúng không chứa diệp lục và vì thế không quang hợp)

329- RÂU HÙM LỚN

328- RÂU HÙM HOA TÍA

328- RÂU HÙM HOA TÍA


Tacca pinnatifida Forst
 

RÂU HÙM HOA TÍA
Em tên gọi Râu hùm hoa tía
Hoa tím đen, họp cán cong dài
Thuốc trị tê thấp rất hay
Nhưng mà phụ nữ có thai không dùng.
BXP
Sưu tập
Râu hùm hoa tíatên khoa học Tacca chantrieri André,Chi Râu hùmTaccahọ Râu hùm TACCACEAEbộ Dioscoreales Củ nâu
Râu hùm hoa tía hay Củ dòm, cây thảo sống lâu năm, cao 50 – 80 cm. Thân bò dài, có nhiều đốt. Lá mọc thẳng từ thân rễ, có phiến hình trái xoan nhọn, dài 25 – 60 cm, rộnh 7-20 cm, màu lục bóng, mép nguyên lượn sóng; cuống lá dài 10 – 30cm; hoa màu tím đen, mọc tụ họp thành tán trên một cán thẳng hay cong dài dài 10 -15cm; bao chung của tán có bốn lá bắc màu tím nâu, các lá bắc ngoài hình trái xoan, thuôn nhọn ở gốc; các sợi bất thụ dài tới 25cm. Hoa 15 – 20 đoá, màu tím đen; bao hoa có 6 thuỳ; nhị 6, màu tím đen; bầu dưới hình nón ngược, có 6 cạnh lồi. Quả không tự mở; hạt có 3 cạnh, màu đỏ tím. Ra hoa tháng 7 – 8, có quả tháng 9 –10. Mọc ở nơi ẩm ướt, nhiều mùn
Dân gian dùng làm thuốc trị tê thấp.
Dùng uống trong: sắc nước :10 – 12g. Dùng ngoài giã nát bôi hoặc nghiền vụn thành bột đắp.
Chữa tê thấp: Kinh nghiệm dân gian dùng 50g thân rễ Râu hùm khô giã nhỏ, trộn với 30g Bồ kết nướng giòn, tán bột, ngâm vào 1/3 lít rượu trong 1 – 2 tuần. Dùng rượu này xoa bóp vào chỗ tê đau, ngày 2 – 3 lần.

327- KHOAI TỪ

327- KHOAI TỪ

Dioscorea esculenta
[img]http://phienbancu.tuoitre.vn/Tianyon...bnailID=383656[/img]
[img]http://www.tin247.com/tintuconline/0...00-877-385.jpg [/img]
Khoai từ 
KHOAI TỪ
Em dân dã, quê mùa, giản dị
Thức ăn ngon, thuốc quý cho người
Em thường có mặt khắp nơi
An thần, chống độc ... giúp đời bình an.
BXP
Sưu tập
Khoai từtên khoa họcDioscorea esculenta, chi Củ nâu Dioscorea., họDioscoreaceae Củ nâu, bộ Dioscoreales Củ nâu
Cây thảo có củ mọc thành chùm hình cầu, dạng trứng hay có thuỳ, có rễ cứng và biến thành gai. Củ có vỏ mỏng, trong có chất bột dính, màu ngà. Thân tròn mảnh, có gai nhỏ ở gốc, to và cong về phía trên. Lá đơn, mọc so le, nhọn hay có mũi, phiến lá mềm, mép nguyên. Cụm hoa dạng bông mang những hoa đơn tính; cụm hoa đực dài đến 20cm, cụm hoa cái mang rất ít hoa. Quả nang cong xuống, có cánh rộng đến 12mm; hạt cũng có cánh. 
Ở Việt Nam, loại có gai (var spinosa) phân bố ở Phú Quốc, loại không gai (var fasiculata) phân bố rộng rãi, ngoài ra còn có củ từ nước (Dioscorea Pierrel) mọc ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Khoai từ không những là một món ăn dân dã quen thuộc mà còn là một vị thuốc quý có lợi cho cơ thể con người. Khoai từ dùng làm thức ăn kiêng cho người tiểu đường, tăng huyết áp, béo phì, là thức ăn hỗ trợ cho phòng chống nhiễm độc kim loại nặng trong môi trường sống, môi trường lao động có chất độc. Đồng thời khoai từ cũng là thức ăn cho người hay bị táo bón, khó ngủ, hâm hấp sốt nhất là đối với trẻ em, người già, trường hợp chưa cần phải dùng thuốc an thần, thuốc tẩy..., có tác dụng giải các chất độc khỏi cơ thể.
Khoai từ ngoài công dụng chữa một số bệnh, nó còn là nguyên liệu để chế biến thành một số món ăn ngon như: canh khoai từ, khoai từ trộn sốt dưa lưới, canh khoai từ tôm viên.