Sưu tập :

Cắt lưng xám - Falco columbarius, chi Falco Cắt, phân họFalconinae, họ CắtFalconidae, 13- Bộ Cắt Falconiformes

Chim đực trưởng thành: Trán, trước mắt, một dải hẹp trên mắt và hai bên đầu trắng nhạt với các thân lông đen phần saụ của dải trên mắt chuyển dần thành hung nhạt. Mặt lưng xám xanh nhạt, mỗi lông đều có vệt đen ở thân lông, Phần sau cá hung có vạch đen ở giữa lông. Đuôi có mút trắng và dải gần mút rộng đen. Lông màu nhạt, lông đầu tiên viền trắng, các lông tiếp theo viền xám và tất cả đều có vằn ngang trắng, các vằn này chuyển dần thành màu xám ở các lông cánh sơ cấp phía trong và các lông cánh thứ cấp. Cằm và họng trắng tinh. Hai bên họng, cò và mặt bụng trắng ít nhiều phớt hung và có vạch đen. Đùi và dưới đuôi thường hung thẫm.
Chim cái: Mặt lưng nâu phớt xám chì, mỗi lông đều viền hung và có thân thẫm. Vai và bao cánh có viền và vệt ở giữa lông. Đuôi có vằn ngang nâu thẫm và xám hung với mút đuôi trắng nhạt vâ dải gần mút nâu, rộng hơn các dải khác. Mặt bụng màu nhạt hơn chim đực và vạch nâu ở các lông cũng rộng hơn nhất là ở ngực và sườn. Các chim cái già giống chim đực, nhưng đầu thường có màu nâu hung với thânlông màu thẫm.
Chim non: Gần giống chim cái nhưng nhìn chung nâu hơn và có nhiều vạch hơn. Mắt nâu. Mỏ xanh xám với mút mỏ đen và gốc mỏ dưới vàng nhạt. Da gốc mỏ và chân vàng.
Kích thước: Cánh (đực): 196 - 204, cái:220 - 224; đuôi: 121 - 138: giò: 34 - 39; mỏ (đực): 14 - l5, cái: 15 - l6 mm.
Phân bố: Cắt lưng xám phân bố ở đông Bắc châu Á, mùa đông di cư xuống phía Nam ở Trung Quốc, Đông Dương, Miến Điện và Ấn Độ
Việt Nam chỉ mới bắt được Loài này ở Huế.

Nguồn : SVRVN T3.14, hình Internet