KHOAI NA (Nưa trồng)
Khoai Nưa ra hoa trước rồi sau ra lá
Là loài trong "Con cá chột nưa" (1)
Lá xẻ lông chim, cụm lớn bao mo
Củ làm lương thực, cũng dùng chữa bệnh.
BXP
Sưu tập
Khoai nưa, Khoai ngái, Nưa trồng -
Amorphophallus konjac, Chi
Amorphophallus, Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước,
thiên nam tinh, bộ Alismatales Trạch tả
Mô tả: Cây thảo có củ lớn hình cầu lõm, trước
ra hoa, sau ra lá. Mỗi lá chia làm 3 nhánh, các nhánh lại chia đốt, phiến lá xẻ
thuỳ sâu hình lông chim, các thuỳ cuối hình quả trám thuôn, nhọn đầu; cuống lá
thon, dài 40-80cm, nhẵn, màu lục nâu, có điểm các chấm trắng. Cụm hoa có mo lớn,
phần bao mo màu lục nhạt điểm các vết lục thẫm, ở phía mép màu hung tím, mặt
trong màu đỏ thẫm. Trục hoa dài gấp đôi mo. Quả mọng.
Nơi mọc: Ở nước ta, các dân tộc ở một số vùng
đồi núi thuộc các tỉnh Quảng ninh, Lạng sơn, Hà bắc... đã có tập quán trồng
khoai này từ lâu đời.
Công dụng: Vị cay ngứa,
tính ấm, có độc. Ta thường dùng loại củ già, củ to, bổ thành miếng nhỏ, ngâm nước phèn một đêm, rồi nấu với một cục vôi
trong 1 giờ thì mới hết ngứa.
Củ lấy bột làm
lương thực, cuống lá (chột) nấu canh hoặc muối dưa, còn dùng làm thuốc chữa đờm
tích trong phổi sinh suyễn tức, trúng phong bất tỉnh, cấm khẩu, chứng đau nhức,
bụng đầy, ngực tức, ăn uống không tiêu. Còn dùng trị sốt rét, trục thai chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét