B.107- CÀ CUỐNG
Sưu tập :

Họ: Chân bơi Belostomatidae
B.107- Cà cuống Lethocerus indicus

Đặc điểm nhận dạng:
Cơ thể hình lá, dẹp, mỏng, Đầu pronotum và scutellum màu vàng nhạt đến nâu sẫm. Pronotum có viền mép trước và bên, và một số vệt hình đĩa màu vàng đến nâu nhạt. Scutellum có mảng nhạt ở hai góc đáy, có đường giữa hẹp và vùng đỉnh đen nâu. Mặt bụng sỉn, sternum có đường viền mép đồng màu. Các nốt đùi có nhiều vệt nâu đen, Đầu nằm giữa hai mắt, giới hạn bởi hai cạnh bên gần như song song, để phân biệt với loài Lethocerus deyrolleycó đầu hình tam giác rõ rệt. Kích thước khoảng 70 - 80mm x 20 - 25mm.
Sinh học, sinh thái:
Cà cuống là loài ăn thịt, hút dịch và máu của nhiều loài động vật thủy sinh, sâu bọ, cánh cứng, tôm, ốc, nhái và cá nhỏ.... Sinh sản vào các tháng 5 - 8 dương lịch, đẻ thành túi bao quanh thân lúa hoặc cỏ, mằn sát trên mặt nước. Búi trứng hình trụ, cỡ khoảng 25 - 30mm x 10mm. Màu vàng đến trắng nhờ có vài chục đến hàng trăm trứng. Trứng hình bầu dục cỡ khoảng 3,5mm. Thời gian phát triển của trứng khoảng 10 ngày, từ khi nở đến trưởng thành là 40 ngày. Cà cuống thuộc nhóm Bọ xít nước phát triển qua biến thái không hoàn toàn. Cà cuống sống ở các ao hồ, thủy vực và ruộng nước sâu, cây cỏ hay lúa mọc lúp xúp, ở điều kiện thí nghiệm có khi cả ngày mằm lờ đờ sát mặt nước, chìa ống thở lên trên. Tuy bay không khỏe, nhưng Cà cuống hay bay lên bờ hoặc từ vực thủy này sang thủy vực khác, nhất là khi chuẩn bị đẻ trứng.
Cà cuống rất nhạy cảm với kích thích của ánh sáng, ban đêm thường bay đến những nơi có đèn điện sáng. Con đực thường ẩn nấp quanh các ổ trứng, để thỉnh thoảng quạt khí cho trứng. Trên mình Cà cuống hay gặp một số Ve nước Hydrachinidae ký sinh. Muỗi năn thuộc họ Cecidomyidae cũng tấn công trứng của Cà cuống.
Phân bố:
Việt Nam: ở khắp vùng đồng bằng trên lãnh thổ Việt Nam, Đã tìm thấy chúng ở Sơn La, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Nội, Quảng Ninh (Bãi Cháy), Hải Phòng (Cát Bà), Thái Bình, Thừa Thiên - Huế (Huế), ây là loài duy nhất thuộc bộ cánh nửa Hemiptera được đưa vào sách đỏ Việt Nam.
Thế giới: miền Viễn đôngliên bang Nga, và vùng nhiệt đới; từ Ấn Độ qua Trung Quốc đến Australia.
Giá trị:
Cà cuống là loài côn trùng cánh nửa có kích thước lớn nhất hiện đang tồn tại (đạt 11 - 12cm), Đây là loài ăn thịt rất khỏe nên đáng chú ý trong chu trình dinh dưỡng ở một số thủy vực, đặc biệt là ở những nơi ươm cá giống. Từ thời Triệu Đà (207 đến 137 trước công nguyên) Cà cuống đã được xếp trong những sơn hào, hải vị của người Việt, để cống sang Trung Quốc với cái tên là con Sâu quế. Tuyến thơm của Cà cuống đực, thịt và trứng của con cái là món gia vị rất độc đáo ưa chuộng của người Việt Nam, Lào, Trung Quốc và nhiều nước trong vùng.
Tình trạng:
Do môi trường thiên nhiên bị phá huỷ, do việc sử dụng nhiều hoá chất trong sản xuất nông nghiệp và do các quần thể con môi tự nhiên cũng bị suy giảm, nên cà cuống ngày càng ít gặp và nếu có chỉ là những quần thể đơn lẻ.
Biện pháp bảo vệ:
Xây dựng quy trình gây nuôi và bảo tồn. Phát triển ở một số vùng ngập nước, như Vân Long, Ninh Bình (Gia Viễn).

(Hết Bộ Cánh nửa)

Nguồn : Wikipedia & Internet