(Sưu tập lại Bộ Hòa thảo)
Nước mía pha gừng có công dụng trị ốm nghén
hiệu quả.
MÍA
Ngọn cây hoa trổ bông cờ
Mía em thân đặc, lá xoà múa gươm
Khi đem ép mật chế đường
Có nhiều công dụng, người thường quý yêu
BXP
Sưu tập
lại Bài 358 STH
Mía - Saccharum officinarum, Chi Saccharum, Họ Cỏ, lúa -
Poaceae, 18-bộ Poales Hòa thảo, bộ Cỏ
hoặc bộ Lúa (nhánh
4)
Mô tả: Cây thảo cao, sống dai nhờ thân rễ. Thân đặc cao từ 2 đến
5 m. Lá phủ một lớp sáp. Lá to, bẹ có nhiều lông dễ rụng, đốt dài 5-10cm, rộng
3-6cm, phiến rộng đến 6cm, màu lục, màu vàng hay đỏ tím, có một gân giữa trắng.
Cụm hoa là chuỳ (cờ) rộng và to ở ngọn cây, mang hoa dầy đặc, bông nhỏ có một
hoa sinh sản.
Nơi mọc: Loài của
Mêlanêdi, được trồng rộng rãi ở Ấn Ðộ, các nước Ðông Nam Á và Mỹ châu. Ở nước
ta, mía cũng được trồng nhiều ở các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi
và các tỉnh miền Bắc như Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú. Mía ưa đất phù sa, sau
11-18 tháng đã có thu hoạch cây để ép mật chế đường và làm thuốc. Rễ có thể thu
hái quanh năm.
Công dụng: Vị ngọt mát, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải
khát, giải độc, tiêu đờm, chống nôn mửa, chữa sốt, tiểu tiện nước tiểu đỏ và rất
bổ dưỡng. Đặc biệt khi chăm sóc "bà bầu" bị nôn khan khi ốm nghén bằng
nước mía pha gừng rất hiệu quả.
Ở Ấn
Ðộ, người ta cho là mía có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, giải nhiệt, kích dục.
Rễ mía có tác dụng làm nhầy, giải nhiệt và lợi tiểu. Ðường cát có vị ngọt, tính
mát, có tác dụng nhuận tâm phế, bổ tỳ, điều hoà can khí, giải nhiệt độc, say rượu,
say sắn.
Mía được dùng ép lấy nước uống chữa sốt, khát nước, tiểu
tiện đỏ, còn dùng chữa nôn oẹ. Ðường cát còn dùng chữa bệnh lỵ, ăn uống không
vào, chữa ho lâu khỏi và chữa trẻ em ho.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét