Sưu
tập :
Đặc điểm nhận dạng: Đực và cái giống
nhau nhưng con cái hơi to hơn. Mặt trên: Màu nền nửa cánh phía nách cánh màu
xám xanh với lốm đốm lông tơ màu nâu. Nửa đỉnh cánh trước trắng với vài điểm
xanh, phấn trắng bao xung quanh mạch cánh. Nửa đỉnh cánh sau màu xám xanh với
màu hoa cà nhạt hoặc trơn (ở loài phụ gialai), có khía dải đen ở đầu và mép
ngoài cánh. Mặt dưới: Màu nền cả hai cánh nâu vàng. Giữa khoảng cánh 2 và 5
cánh trước và giữa khoang 2 và 6 cánh sau có các đốm tròn vòng màu nâu - da
cam, có điểm trắng ở giữa và viền đen xung quanh. Chiều dài cánh trước 55 -
58mm ở con đực và 61 - 69mm ở con cái. Có hai phân loài ở Việt Nam. Mẫu thu
được ở Gia Lai có màu sẫm hơn ở Lâm Đồng.
Sinh học, sinh thái: Sống trong rừng
thường xanh nguyên sinh và thứ sinh và rừng tre nứa ở độ cao vừa phải (400 -
800m). Xuất hiện theo mùa vào cuối mùa khô. Qua các năm, loài này được phát
hiện khá phong phú tuy nhiên mật độ quần thể biến động. Cá thể trưởng thành bay
rất gần mặt đất và thích hoa quả thối rữa và phân động vật. Thức ăn chưa biết.
Phân bố: Trong nước: Gia Lai (Kon Cha Rang), Lâm
Đồng (Bảo Lộc, Cát Lộc).
Thế giới: Mới chỉ thu được ở Việt Nam.
Giá trị: Loài mới được mô tả (1998) có giá trị
nghiên cứu khoa học và có thể là đặc hữu của Việt Nam.
Nguồn : SVRVN & Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét