CÂY LƯỢC VÀNG
Cây thân thảo, cụm hoa trắng nhỏ
Tuyết trời Nga - nắng lửa xứ Thanh
Bao năm chữa bệnh quên mình
Lược vàng em đã trở
thành thiết thân.
BXP
Sưu tập lại Bài
238
Cây lược vàng, hay
Lan vòi, Lan rũ, Địa lan vòi - Callisia
fragrans, chi Callisia lược
vàng, Họ Thài lài Commelinaceae, 17-bộ Commelinales Thài lài (nhánh 4)
Mô tả: Cây thân thảo, màu xanh lục, mọng nước, có thể cao tới
1,5m; lá mọc so le, dài 20 - 30cm, rộng 5 - 7cm, đầu lá nhọn. Thân bồ non thường
có màu nâu tím, hoa đường kính dưới 1cm, màu trắng, mùi thơm, tập trung ở các mấu
của cuống cụm hoa phân nhánh có dạng chuỳ.
Nơi mọc: Theo tài
liệu của Nga, cây có xuất xứ từ Nam Mỹ, được trồng làm cảnh trên thế giới đã
hơn 100 năm, xuất hiện lần đầu tiên ở tỉnh Thanh Hóa vào cuối những năm 1990.
Công dụng: Theo một số thông tin dân gian, cây lược vàng có nhiều công dụng chữa bệnh,
trong đó có một số bệnh khó chữa, một thời được coi là thần dược, nhưng nghiên
cứu bước đầu của Viện Dược liệu cho thấy nó không giúp kháng khuẩn, chống viêm,
thậm chí còn có độc. PGS.TS Trần Công Khánh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu cây
thuốc Việt Nam cho biết: "Cho đến thời điểm
này (2013), Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về tác dụng
sinh học, liều dùng và cả độc tính của cây lược vàng. Không rõ nó được đưa vào
nước ta từ khi nào, nhưng trong các sách về hệ thực vật cũng như sách về cây
thuốc Việt Nam thì không tìm thấy tên cây này".
Theo thông tin mới nhất, bài đăng hôm nay, 04/7/2014, TS.
Trịnh Thị Điệp, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, cây lược vàng - Callisi
fragrans là cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian ở Nga và có thông
tin cho rằng ở Nga loại cây này được dùng để chữa nhiều chứng bệnh như viêm đường
hô hấp, viêm răng lợi, viêm đường tiết niệu, bệnh dạ dày, đau xương khớp đến
các bệnh về tim mạch, huyết áp, thậm chí cả ung bướu... nhưng trên thế giới có
rất ít các công bố khoa học về thành phần hóa học và tác dụng sinh học của cây
lược vàng. Tại Việt Nam, cây lược vàng chưa được nghiên cứu mà chủ yếu mới chỉ
được dùng chữa bệnh theo kinh nghiệm. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của nhóm
thu được thật bất ngờ. Về kết quả thử tác dụng chống viêm cấp trên thực nghiệm
với liều dùng tương đương với 50g dược liệu tươi/kg thể trọng chuột cho thấy lược
vàng không có tác dụng chống viêm, thậm chí cao chiết cồn 50% từ thân lược vàng
còn tăng phản ứng viêm. Về khả năng kháng khuẩn, trong 3 chủng vi khuẩn thường
gặp, cao chiết của lá và thân lược vàng có tác dụng kháng khuẩn đối với
Staphylococcus aureus nhưng phải ở nồng độ rất cao so với kháng sinh tham chiếu
là azithromycin. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cao chiết lá và
thân lược vàng còn có độc tính cấp, gây chết chuột thí nghiệm ở liều uống cao
tương đương với từ 2.100g-3.000g dược liệu tươi/kg thể trọng. Qua kết quả
nghiên cứu bước đầu này, nhóm nghiên cứu chưa thể khẳng định rằng người dân sử
dụng với liều lượng 5 - 6 lá/ngày có bị ảnh hưởng đến sức khỏe hay không. Đồng
thời, tuy các kết quả nghiên cứu dược lý ban đầu chưa làm sáng tỏ tác dụng chữa
bệnh của cây lược vàng nhưng cũng đã cho thấy rằng lược vàng phải chứa các
thành phần có hoạt tính sinh học mạnh thì mới có ảnh hưởng rõ đến chuột thực
nghiệm. Vì thế cần phải tiến hành một nghiên cứu sâu hơn mới có thể đưa ra kết
luận cuối cùng về vấn đề này. Do đó, TS. Điệp khuyến cáo khi các nhà khoa học
chưa đưa ra kết luận cuối cùng về tác dụng chữa bệnh của cây lược vàng, người
dân hãy thận trọng khi sử dụng loại cây vốn được đồn thổi là "thần dược"
có thể chữa bách bệnh này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét