CÀ TRÁI VÀNG
Lá mọc so le; phiến trái xoan
Hoa màu xanh-tím, quả màu vàng
Mùa Xuân hoa-quả, mùa Thu chín
Vị đắng, nhưng nhiều bệnh phải dùng.
BXP
Sưu tập
Cà trái
vàng hay Cà tàu - Solanum xanthocarpum Schrad, Chi Solanum, Họ Cà - Solanaceae, 52- Bộ
Solanales Cà (nhánh 11)
Mô tả: Cây thảo có khi hoá gỗ, cao đến 0,8m, rất nhiều gai nhẵn hoặc có lông dài ở
cành non và lá. Lá mọc so le; phiến lá hình trái xoan rộng hay bầu dục, chia
thuỳ sâu nhiều hay ít, thường có 5-9 thuỳ nhọn, dài 4-6cm, rộng 3-5cm; cuống có
gai nhiều dài 10-15mm. Hoa màu xanh xanh hay tím, xếp 3-5 cái thành xim ngoài
nách, có cuống. Quả mọng tròn, đường kính 25mm, màu trắng điểm xanh lơ, lúc
chín màu vàng, to cỡ 1,5-2cm. Hạt dẹp, có cánh, đường kính 4mm.
Hoa tháng 2-4, quả tháng 5-8.
Nơi mọc: Loài phân bố ở miền nhiệt đới Nam Mỹ,
châu Đại dương và nhiều nước châu Á: Ấn Độ, Xri Lanca, Malaixia, Trung Quốc và
các nước Đông Dương. Ở nước ta, thường gặp trên đất khô ở các tỉnh Lâm Đồng,
Gia Lai, Đắc Lắc và một số nơi khác ở các tỉnh phía Bắc.
Công dụng: Cây hoa và quả đều có vị đắng. Ở nước ta, các nhà hoá dược mới nghĩ
đến quả Cà trái vàng là nguồn nguyên liệu để chiết xuất solasodin như các nước
khác. Còn ở Ấn Độ, các bộ Rễ dùng trị ho, hen, cảm sốt, sổ mũi, đau ngực. Nước
ép quả dùng chữa đau bụng. Thân cây, hoa quả dùng chữa đầy bụng, bỏng ở chân,
ban mụn nước và phồng nước. Cây cũng được dùng chữa phù thận, thủy thũng và
dùng chữa bệnh lậu. Lá có thể đắp giảm đau tại chỗ. Dịch lá phối hợp với hồ
tiêu dùng trị thấp khớp. Nụ và hoa với dung dịch muối dùng trị mắt chảy nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét