RÂU MÈO
Nhụy dài...nhị
cũng nhoài theo
Cho nên người đặt Râu mèo tên em
Trắng trong ... rồi tím niềm tin
Sỏi, thận, thấp khớp ... có em lo gì.
BXP
Sưu tập
R.68 . Râu mèo, Cây
bông bạc - Orthosiphon spiralis,
Chi Orthosiphon, Họ
Hoa môi (họ bạc hà) - Lamiaceae, Bộ Lamiales Hoa môi (nhánh 11).
Mô tả: Cây thảo lâu năm, cao khoảng 0,5-1m. Thân vuông, thường
có màu nâu tím. Lá mọc đối, có cuống ngắn, chóp nhọn, mép khía răng to. Cụm hoa
là chùm xim co ở ngọn thân và ở đầu cành. Hoa màu trắng sau ngả sang màu xanh
tím. Nhị và nhụy mọc thò ra ngoài, nom như râu mèo. Bao phấn và đầu nhụy màu
tím. Quả bế tư.
Nơi mọc: Loài cây miền
Malaixia - Châu Ðại Dương, thường được trồng nhiều ở vùng đồng bằng và vùng
núi, cây chịu ngập tốt. Trồng bằng hạt. Khi dùng làm thuốc, cắt cả cây, thu hái
khi cây chưa có hoa, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô.
Công dụng: Vị ngọt, nhạt, hơi đắng, tính mát. Thường được
dùng trị: Viêm thận cấp và mạn, viêm bàng quang; Sỏi đường niệu; Thấp khớp tạng
khớp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét