CỨT NGỰA
Hoa em mang sắc tươi hồng
Mà tên Cứt ngựa, đau lòng lắm thay!
Ống tràng ngắn, chỉ một môi
Vị cay, tính mát.., tình đời thiết tha.
BXP
Sưu tập
Cứt ngựa, Hoắc hương núi - Teucrium viscidum, Chi Teucrium, Họ Hoa môi (họ
bạc hà) - Lamiaceae, Bộ
Lamiales Hoa môi (nhánh
11).
Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm có chồi cao 30-70 cm, có khi hoá
gỗ ở gốc, phân nhánh ít hay nhiều. Lá có phiến mỏng hình trứng, mép khía răng
cưa, cuống ngắn. Cụm hoa dạng chùm đơn hay chuỳ, ở ngọn và ở nách lá, gồm những
vòng 2 hoa; lá bắc hình mũi mác. Hoa có cuống; đài hình ống phủ lông dài; tràng
màu hồng có ống ngắn, gần như không thò ra, có lông, phiến chỉ có một môi 5 thuỳ;
4 nhị, 2 trội; vòi dài chẻ đôi. Quả bế tù, hình trái xoan.
Ra hoa vào mùa hè (tháng 3-4).
Nơi mọc: Cây mọc
hoang ở Hà Nội, Nam Hà, Ninh Bình qua Thừa Thiên tới Phú Yên. Thu hái toàn cây,
rửa sạch dùng tươi hay phơi khô, bó lại dùng dần.
Công dụng: Vị đắng, cay, tính mát. Thường dùng
trị: Nôn ra máu, chảy máu cam, ỉa phân đen; Đau bụng kinh; Chó dại cắn; Đụng giập,
ổ tụ máu, vết thương chảy máu, cụm nhọt, rắn cắn, đau thấp khớp. Bên ngoài dùng
cây tươi giã đắp tại chỗ hay nấu nước rửa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét